Skip to main content
Tên thường gọi đầy đủ là chó đẻ răng cưa – sở dĩ người ta gọi tên như thế vì thường sau khi đẻ con xong, con chó thường chạy ra vườn tìm ăn loại cây này (để giúp làm tiêu huyết dư, ứ sau đẻ), và lá có hình răng cưa.
 
Ngoài ra, cây này còn có tên là diệp hạ châu. Tên khoa học là Herba Phyllanthi Amari. Cây chó đẻ răng cưa mọc rất nhiều nơi ở trong nước và một số nước châu Á, mọc nhiều vào mùa mưa. Cây có sức sống mạnh mẽ, ta thường thấy chúng mọc chen chúc chung với cỏ, thậm chí cả những nơi mà cỏ không sống được như kẽ nứt lề đường. Bộ phận dùng là cả cây. Thường người ta thu hái cây chó đẻ răng cưa vào mùa hè – bởi thời điểm này các hoạt chất chữa bệnh của cây đạt ở ngưỡng cao nhất. Khi khai thác, chúng ta cần lưu ý có 3 loài cây gần giống nhau:
1. Cây chó đẻ thân xanh (diệp hạ châu đắng) Phyllanthus niruri (tên đồng nghĩa Phyllanthus amarus): Toàn thân có màu xanh tươi, cành ngắn, rất ít phân nhánh, phiến lá có màu xanh nhạt, ngắn và mỏng hơn cây chó đẻ thân đỏ. Khi nhai có vị đắng nên trong đông y được gọi là cây diệp hạ châu đắng. Đây là loài có dược tính mạnh nhất, khi nói về cây chó đẻ hay diệp hạ châu thì mọi người hầu như ám chỉ đến loài này.
2. Cây chó đẻ thân đỏ (diệp hạ châu ngọt) Phyllanthus urinariaThân có màu hanh đỏ và màu thường đậm nơi gốc cành, phân nhánh rất nhiều, phiến lá có màu xanh hơi đậm, dài và dầy hơn cây chó đẻ thân xanh. Khi nhai có vị ngọt nên trong đông y được gọi là cây diệp hạ châu ngọt. Khác với điều một số người thường nghĩ, cây chó đẻ thân đỏ vẫn được khai thác trong tự nhiên để làm thuốc nhưng có lẽ dược tính không mạnh bằng cây chó đẻ thân xanh nên không được trồng đại trà. 
Lưu ý:
Một số cá thể chó đẻ thân đỏ lại hầu như không có màu đỏ (mất đỏ). Những cây như thế này thường xuất hiện vào mùa mưa hay ở những vùng có nhiều nước, có lẽ cây lớn quá nhanh không tích đủ chất sắt hoặc vùng đất nghèo chất sắt. Trên mạng có rất nhiều hình cây Phyllanthus urinaria “mất đỏ” được dùng minh họa cho cây chó đẻ thân xanh Phyllanthus niruri. Đây là một lỗi khá phổ biến, bởi vậy chúng ta không nên hoàn toàn dựa vào màu đỏ để phân biệt các loài diệp hạ châu (mà phải dựa vào dạng lá). Một lỗi nữa là sự nhầm lẫn giữa tên khoa học của hai loài này với nhau nhưng không gây ra tác hại gì. Khi khác thác cây dược liệu, chúng ta cần lưu tâm đến vấn đề này để chọn đúng loại cây chó đẻ có dược tính mạnh nhất, tức chó đẻ thân xanh.
3. Một loài diệp hạ châu nữa Phyllanthus sp. có màu xanh đậm, lá rời rạc, phiến lá hẹp và chóp nhọn hơn so với hai loài trên. Loài này không được dùng làm thuốc.
Công dụng:
Cây chó đẻ có nhiều công dụng nhưng đáng chú ý nhất là giải độc, mát gan và tiêu mỡ máu. Theo y học cổ truyền, chó đẻ răng cưa có vị đắng, tính mát, có các công dụng: sát trùng tiêu ứ, tiêu độc, thông huyết, điều kinh (điều hòa kinh nguyệt), có nơi còn dùng để chữa bệnh sốt rét. Ngoài ra, loại cây này còn được sử dụng rộng rãi trong việc điều trị bệnh viêm gan siêu vi B… Nhưng, lưu ý, những người thường xuyên bị tiêu chảy dùng phải cẩn thận, cần tham khảo ý kiến thầy thuốc.
 
Có thể dùng cây chó đẻ răng cưa bằng cách: dùng cây khô thì từ 10-20gr sắc (nấu) để uống trong ngày. Nếu dùng cây tươi thì mỗi ngày dùng từ 50-100gr giã nát, vắt lấy nước uống.
 
(From Nguyễn Thành Tình – http://tinhiapa.violet.vn & vnreddevil – diendancacanh.com)