Skip to main content

Khám phá thế giới cổ tích Việt Nam qua các câu chuyện này! Những câu chuyện dân gian đầy ý nghĩa như sẽ đưa bạn về tuổi thơ cổ tích. Cùng tôi nhớ lại các truyền thuyết về lòng tốt, sự thông minh và bài học cuộc sống nhé!

Nghe đầy đủ playlist Truyện Cổ Tích Việt Nam Chọn Lọc: https://bit.ly/4itLLj9

Bầu Tiên Và Gậy Rút, Cái Ang Vàng, Cái Trống Thầnhttps://youtu.be/cnKJlzbgbG8

Bầu Tiên Và Gậy Rút

Ngày xưa ở làng Thọ Vực (thuộc xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa bây giờ) có một gia đình nghèo sinh được mấy người con, trong số đó, người con thứ hai đặt tên là Trịnh Phát Giác. Giác là một chú bé kháu khỉnh và thông minh lắm. Ngày ngày, chú thường chăn bò ở ven núi đầu làng với chúng bạn. Các chú thường nhận thấy là cứ đến phiên chợ Giáng thì có một ông già xách bị, cầm gậy đi qua bãi cỏ. Có lúc ông cụ đi thẳng, nhưng cũng có lúc ông cụ ngồi xuống nghỉ chân vài ba khắc. Lần nào ngồi nghỉ ông cũng đều ngắm nghía từng chú bé một và lẩm bẩm những gì không rõ. Một hôm, Trịnh Phát Giác bạo dạn chạy lại, hỏi cụ:

– Cụ ơi! Cụ ở đâu mà phiên chợ nào cũng qua lại và nghỉ ở đây thế?

Ông cụ gật gù thầm nghĩ: “Thằng bé này khá lắm”, và trả lời:

– Lão ở xa lắm. Lão đi chợ qua đây thấy các cháu chơi vui thì nhìn một tí. Cháu có muốn gánh đỡ cho lão không? Cứ gánh đi tới chợ, lão mua bánh cho.

Phát Giác gật đầu đồng ý, bảo với chúng bạn:

– Chúng mày ơi! Giữ hộ bò tao với nhé. Chờ tao đi xem chợ một chốc.

Rồi ông cụ cho bánh tao đem về cho mà ăn.

Quả thật, chiều về, Trịnh Giác mang theo cho chúng bạn rất nhiều quà bánh. Mấy phiên chợ sau, ông lão cũng vẫn đi qua và cũng rủ Phát Giác đi chợ như vậy. Đã có đôi lần, một vài chú bé khác xin đi thay, nhưng đứa nào cầm đến chiếc bị của ông cụ cũng đều kêu nặng, không tài nào xách lên nổi, cả những đứa lớn khỏe hơn Phát Giác rất nhiều cũng vậy. Chúng lấy làm lạ hỏi ông cụ:

– Cụ ơi! Cụ bỏ cái gì vào trong bị mà nặng thế?

Ông cụ mở bị lôi ra quả bầu:

– Có gì đâu, chỉ có quả bầu lão đựng nước uống đi đường đấy mà.

– Thế sao Phát Giác nó xách nổi, mà chúng cháu xách không nổi?

– Chẳng phải thế, có lẽ Phát Giác nó xách quen rồi đấy thôi! – Ông cụ trả lời qua quýt.

Bọn mục đồng không tin, nhưng cũng không hỏi thêm nữa. Chúng nhìn theo ông lão bước đi thoăn thoắt và Phát Giác nhẹ nhàng theo sau mà vừa lạ lùng, vừa thèm muốn. Hôm ấy, mãi đến xế chiều vẫn không thấy ông lão và thằng bé về. Chúng chờ mãi không được, đuổi bò về cho Phát Giác và đến kể cho gia đình nghe. Bố mẹ Phát Giác hoảng hốt chạy bổ đi tìm, nhưng tìm khắp cả mọi nơi đều không thấy con đâu cả. Sáng hôm sau cũng không thấy Phát Giác về. Liên tiếp đến hàng năm vẫn bặt tin tức. Mẹ Phát Giác khóc lóc khổ sở, đành chịu mất con.

Nhưng thật ra, chiều hôm ấy, Phát Giác vẫn đi với ông lão. Ra đến chợ, ông lão bảo Phát Giác đứng chờ, để ông lão đi bán thuốc. Mãi đến sẩm tối mới thấy ông lão ra và hai ông cháu trở về. Thấy bạn bè đã về hết, Phát Giác

khóc và bảo ông cụ:

– Cụ dẫn cháu đi lâu thế này, về nhà mẹ cháu đánh cháu chết mất.

Ông cụ khuyên nhủ:

– Thôi, trời đã tối rồi, cháu về nhà lão ở, mai lão dẫn cháu về, nói rõ câu chuyện, bố mẹ cháu không mắng đâu.

– Nhà cụ ở đâu?

– Ở đây thôi.

Vừa nói, ông cụ vừa mở bị lấy quả bầu ra, bảo Phát Giác nhìn vào trong ấy. Một quang cảnh lạ lùng diễn ra trước mắt chú bé ngây thơ. Đây là cả một thế giới riêng có làng xóm, nhà cửa hẳn hoi, ánh mặt trời chiếu xuống khe núi. Trên hàng cây dương liễu, chim hót líu lo. Ông cụ dắt Giác bước vào, ngồi trên một phiến đá phẳng lì, mát rượi. Chú bé nhìn quanh nhìn quẩn, càng nhìn càng thích mắt. Ông cụ lại bảo:

– Cháu đói rồi phải không? Có oản, chuối đấy, ăn đi. Ăn rồi vục nước dưới khe kia mà uống.

Ông cụ với tay lên một chiếc lẵng treo cạnh cành cây, bên phiến đá, lấy ra một mẩu oản nhỏ xíu và vươn mình sang hàng chuối trước mặt, bẻ cho Phát Giác một quả. Phát Giác lúc đầu cho rằng ăn có chừng ấy thì chẳng bõ bèn gì, nhưng cầm lấy phần oản, chú chưa ăn hết được một góc đã thấy no. Quả chuối vừa bóc ra thì mùi hương thơm phức, vị ngọt mà thanh. Thực chưa bao giờ chú được ăn món quà đặc biệt như thế. Ông lão mỉm cười, giảng giải:

– Cái oản cháu ăn đó, làm bằng thứ nếp vạn thọ người đời không có đâu.

Các thứ hoa quả ở đây đều là của tự nhiên không vướng gì trần tục, nên mới có mùi hương như vậy.

Rồi ông cụ dắt Phát Giác đứng dậy, dạo chơi ven bờ suối. Ông cụ chỉ dải cát lấp lánh bên bờ mà bảo chú bé:

– Cháu có thấy những gì đó không? Vàng bạc cả đấy! Ở nơi bố mẹ cháu ở, được một viên nho nhỏ như thế là quý vô cùng. Nhưng ở đây thì chỉ là một thứ sỏi đá.

Như sực nhớ ra điều gì, Phát Giác quay lại hỏi ông cụ:

– Cháu nhớ vừa mới rồi, cụ dắt cháu ở chợ về thì trời đã sẩm tối. Sao bây giờ ở đây lại như đang còn vào buổi sáng hở cụ?

– Ở đây không có ngày tháng gì cả. Trời đất lúc nào cũng như bây giờ. Có cả mặt trăng, mặt trời cùng một lúc. Cháu có muốn xem cảnh trăng thì đi theo lão.

Ông cụ dắt Phát Giác đi vào phía sau. Quả nhiên ở đây là một cảnh trí khác lung linh, huyền ảo, ánh trăng bàng bạc chiếu xuống hàng cây đỏ, bãi cát xanh. Thấp thoáng xa xa có ngọn đèn chập chờn của một xóm quê ẩn hiện dưới làn sương mỏng. Phát Giác càng xem càng thích, càng thấy cảnh sắc êm đềm, tươi đẹp. Em lại hỏi ông cụ:

– Sao cháu thấy có xóm làng mà không thấy có người nào cả.

Ông cụ đáp:

– Có chứ, ở đây có rất nhiều người, nhưng người ở đây đều là tiên cả.

Cháu đã nghe nói đến tiên bao giờ chưa? Họ cũng làm lụng, ăn uống, trò chuyện như người đời. Có điều là họ không có hạng giàu hạng nghèo, kẻ trên người dưới. Ai cũng làm lấy mà ăn, không cãi cọ tranh giành, mọi người đều vui vẻ. Của cải, vật dụng dồi dào, không có chuyện trộm cắp xấu xa, không ai có của riêng của để. Họ ra chơi luôn, đông như ngày hội, rồi đây cháu sẽ được gặp.

Ở trong thế giới ấy với ông cụ được ít lâu, Trịnh Phát Giác nhớ nhà quá.

Em nói với ông cụ xin về thăm bố mẹ và các em. Em còn muốn đưa bố mẹ và các em vào trong này xem cảnh. Ông cụ ra ý không vui.

– Cháu về à? Nhà cháu bây giờ xa lắm đấy. Cháu về làm gì nữa? Cháu

không muốn ở đây sao?

– Cháu muốn ở đây lắm. Nhưng cháu còn các em, cháu nhớ các em cháu. Và cháu còn bố mẹ cháu.

Ông cụ không ngăn được, bèn đưa cho em một cái gậy và một phẩm oản:

– Lão bận lắm, còn phải làm thuốc. Bây giờ cháu cứ cầm cái gậy này mà đi ra. Nơi nào không đi được thì cứ cầm gậy trỏ xuống đất thì sẽ vượt qua mau chóng.

Trịnh Phát Giác cầm lấy gậy và oản, chào ông cụ đi ra. Chú bé nhặt mấy viên sỏi đẹp bên khe suối bỏ vào túi, định về cho em chơi và khoe với chúng bạn. Được mấy bước, chú ra khỏi quả bầu, ngoảnh mặt lại thì không thấy ông cụ, nhà cửa, khe suối đâu nữa. Trước mặt chú là những dãy núi cao chót vót, làng mạc thôn xóm thì ở đâu xa tít chân trời. Phát Giác hoảng sợ, cầm gậy trỏ xuống đất. Bỗng nhiên chú thấy thân mình cất bổng lên cao, hai bên tai gió quạt vù vù. Chỉ trong chớp mắt, quay đầu gậy lại, chú đã thấy mình đứng ở đầu làng Thọ Vực. Chú mới biết rằng đó là chiếc gậy thần tiên để rút đất và ông cụ quả thật là một thần nhân.

Phát Giác lần theo lối cũ đi vào làng, về nhà mình. Chú chắc mẩm sẽ được gặp cha mẹ, anh em, nhưng lạ thay, không thấy một ai quen thuộc. Một cụ già ra đón chú, hỏi chuyện, và trả lời một cách kinh ngạc:

– Trước đây hàng trăm năm, tôi có nghe cụ tổ nhà tôi kể có một người con trai thất lạc từ thuở bé, tên tuổi đúng như cậu. Bây giờ đã gần ba đời rồi kia mà.

Cả họ hàng làng xóm kéo đến. Phát Giác hỏi đến những người bạn chăn bò chăn trâu thuở trước thì đã mất cả rồi. Phát Giác kể lại câu chuyện trong chiếc bầu tiên. Ai nấy đều lấy làm kinh dị. Một ông lão nói:

– Thôi thế chính là cậu đã được đi vào cõi tiên rồi. Tôi nghe nói một ngày trên trời dài bằng cả năm dưới hạ giới. Chúng tôi đây chỉ là hạng con em, cháu chắt của cậu thôi.

Trịnh Phát Giác hoang mang, không biết xử trí ra sao cả. Cậu móc túi lấy mấy viên sỏi ra, nhưng vừa đặt lên tay thì sỏi đã thành những cánh hoa bay mất. Buồn rầu, cậu cắm chiếc gậy xuống đất. Chiếc gậy bỗng hóa thành ra một con rồng, cậu bé trèo lên lưng rồng và bay đi. Nơi cắm chiếc gậy nổi lên một dãy núi đá có cửa hang mở rộng. Người làng đi vào trong hang thấy cảnh trí thần kỳ, có đường đi mãi vào trong. Họ quay về hỏi những người tinh thông sách vở. Một cụ đồ tra điển tích, bảo với bà con:

– Tôi đọc sách xưa, thấy có truyện ông Thi Tốn người nước Lỗ học phép tiên, thường mang một cái bầu trong đó có mặt trăng, mặt trời, đêm đến lại vào trong bầu ngủ, ông ta tự đặt hiệu là Hồ Thiên, người đời gọi là Hồ Công.

Sau Hồ Công gặp Phí Tràng Phòng ở Hoa Dương, cho Tràng Phòng một cái gậy cũng hóa thành con rồng. Có lẽ cậu Trịnh Phát Giác ở làng ta là thân sau của Phí Tràng Phòng đã được gặp Hồ Công chăng?

Biết câu chuyện ấy, người làng Thọ Vực bèn đặt luôn cái động ở dãy núi là động Hồ Công. Động Hồ Công là nơi danh thắng của tỉnh Thanh Hóa và của cả nước ta, xưa nay được rất nhiều người ngợi khen và lấy làm đề tài ngâm vịnh.

Nguồn: Truyện cổ các dân tộc Thanh Hóa,
Phùng Sĩ Hòa và Nguyễn Hữu Chức tuyển chọn và biên soạn.
Nxb. Thanh Hóa, 1999.


 
Cái Ang Vàng

Ngày xưa, có một cặp vợ chồng nghèo đến nỗi vợ chồng con cái phải nằm chung nhau một manh chiếu. Đồ dùng trong nhà từ cái bát, cái xanh, cho đến cái ang đựng nước cũng sứt mẻ, nhưng họ ăn ở với nhau rất thuận hòa.

Một hôm, bỗng nhiên từ bốn phía mây đen kéo tới. Rồi một cơn mưa ầm ầm đổ xuống. Đường làng lầy lội, nước tràn lênh láng khắp nơi.

Sau trận mưa ghê gớm ấy, có một cụ già lưng còng, tay chống gậy trúc và cứ đi được vài bước lại ngã lăn xuống đất ho khù khụ, đờm nhổ thành bãi. Ai nhìn thấy cũng rùng mình rồi quay mặt đi. Cụ đi qua người nào họ cũng phải bịt mũi vì mùi hôi thối khó chịu từ mình cụ xông ra. Ông cụ đi suốt từ đầu làng đến cuối làng để xin ngủ nhờ mà chẳng nhà nào dám nhận. Họ sợ bẩn và bệnh tật của cụ lây sang nhà họ. Nhưng tệ hơn là mấy nhà lang đã không cho cụ ngủ còn xua chó ra đuổi theo và cắn ông cụ.

Cụ già đi mãi, đến cái nhà chật hẹp ở cuối làng, cụ không biết vào nhà ai nữa đành vào đó, thúc thúc cái gậy vào phên cho cả nhà thức rồi van nài xin ngủ.

Trời tạnh rồi, nhưng cơn mưa trước đó đã làm cụ ướt hết quần áo. Chân tay cụ run cầm cập, miệng nói không ra tiếng. Nghe tiếng đập cửa, chị vợ ra mở cửa, một mùi hôi thối xông lên, chị nhắm mắt lại và quay vào nhà:

– Anh à! Có người xin ngủ nhờ!

Anh chồng chui khỏi ổ lá khô, chạy ra mở cửa rồi dắt tay ông cụ vào nhà, anh bảo vợ:

– Đi đốt củi cho cụ sưởi rồi dọn chỗ cho cụ nằm.

Ngồi bếp vừa ấm tay chân, thì chị vợ đã dọn xong chỗ nằm cho cụ và cả gia đình. Manh chiếu rách độc nhất dành cho cụ, còn gia đình thì trải lá ra quanh bếp để ngủ.

Cả nhà vừa chợp mắt thì ông cụ lại thều thào gọi:

– Tôi già, sức yếu lại bị hen nên thường phải khạc luôn. Nhà có cái gì đựng cho tôi mượn, không lại khạc bẩn ra nhà.

Chiều ý cụ, chị vợ đi lấy cái ang đựng nước đem lên cho cụ khạc đờm vào đó.

Sáng dậy, không thấy cụ đâu nữa, cả nhà ngạc nhiên. Chị vợ lại chỗ cụ nằm đem ang đờm đầy ra vườn để đổ thì ôi: Một ang vàng lóng lánh, những thỏi vàng dài đến gang tay và vuông vắn như người vót. Sung sướng quá, chị gọi chồng và các con ra nhìn. Họ ngồi quay quanh đống vàng một lúc rồi mỗi người một tay bốc vàng đem lên nhà cất kỹ. Từ đó gia đình sống đỡ chật vật hơn.

Tin vợ chồng nhà nghèo được vàng truyền đi rất nhanh. Tiếng thơm bay vào mấy nhà lang, chúng ăn không ngon bụng, ngủ không yên giấc.

Hôm sau, ông cụ rách rưới ấy trở lại. Cụ vừa bước vào đầu làng thì tên lang Đạo ác như cọp dữ trông thấy. Nó đang định sang làng bên uống rượu, nhưng thấy ông cụ vào thẳng ngõ nhà nó, làm nó mừng quýnh lên, quên cả mâm cỗ đang chờ đợi. Nó vội sửa lại khăn, áo rồi hấp tấp chạy xuống cầu thang. Tên Đạo chắp tay cúi xuống, chào mời xuýt xoa:

– Dạ! Chào cụ, mời cụ lên nhà nghỉ ngơi chơi với nhà chúng con.

Mời được cụ lên nhà, nhưng cái mùi hôi thối khó chịu khiến tên Đạo không chịu nổi. Một tay nó dắt ông cụ lên sập ngồi, nhưng một tay nó lại bịt mũi, bịt mồm. Để ông cụ ngồi xuống sập, nó vội chạy vào nhà thở hồng hộc như người chết ngạt mới sống lại. Nó sai người nấu nước nóng để vợ chồng nó bưng ra cho ông cụ rửa mặt, rửa chân tay, còn mấy người ở khác thì mau làm cơm mời cụ ăn.

Một lát sau, mâm cỗ được bưng ra giữa sập. Tên lang Đạo mời mọc ông cụ rối rít. Chẳng đợi tên Đạo mời, ông cụ cầm đũa ăn một mạch hết gọn mâm cỗ rồi xin phép đi ngủ.

Chờ người ở dọn mâm xong đâu vào đấy vợ chồng tên Đạo mới đi quét sập, trải sửa mới (1), chăn mới rồi mời cụ đi nằm.

———-

(1) Sửa: Đệm dành cho các cụ già nằm, làm bằng bông xung quanh bọc vải.

Cụ vừa đứng dậy thì bệnh ho ầm ầm kéo đến. Cụ nằm lả xuống sàn ho một cơn đến giập bã trầu mới ngồi dậy được. Ho xong cụ mượn cái ống để nhổ đờm cho khỏi bẩn nhà. Đã chuẩn bị sẵn, vợ tên Đạo vội vã chạy vào nhà cùng ba người ở khiêng một cái xanh tám, bốn quai, ra đặt ở đầu sập. Đêm đó, ông cụ ho luôn mồm, khạc đầy xanh, cụ lấy chăn bịt kín miệng xanh lại còn cả nhà tên Đạo thì không ai ngủ được. Nhất là vợ chồng tên Đạo khi nghe tiếng khạc nhổ thì hí hửng mong trời mau sáng để lấy vàng.

Hôm sau, ông cụ dậy sớm lắm. Nhưng vợ chồng tên Đạo còn dậy sớm hơn, chúng sai người làm cơm, nấu nước chờ cụ dậy, chúng bưng nước ra mời cụ xúc miệng rửa mặt, rồi bưng cơm ra. Ăn cơm xong thì trời vừa sáng, cụ xin phép vợ chồng tên Đạo ra đi.

Ông cụ vừa bước khỏi cầu thang thì vợ chồng tên Đạo tranh nhau mở xanh “vàng”. Vừa giằng được cái chăn khỏi miệng xanh thì nào ong nào rắn xông ra đốt cắn tứ tung vào vợ chồng tên Đạo làm chúng nằm lăn ra chết. Từ đó, bọn nhà giàu trong vùng này, thấy người già kẻ khó không dám khinh thường và làm điều ác nữa.

Nguồn: Hợp tuyển truyện cổ tích Việt Nam,
Lữ Huy Nguyên – Đặng Văn Lung sưu tầm và biên soạn,
Nxb. Giáo dục, H., 1996.


 
Cái Trống Thần

Ngày xưa, ở khu rừng nọ có cây đa và cây dâu mọc cạnh nhau. Một hôm có ba anh em nhà kia đi làm nương qua đấy, thấy dâu đã chín đỏ bèn trèo lên hái. Đang ăn, người anh cả trông thấy một cái trống treo lủng lẳng trên cành đa liền nói với hai em:

– Trống thần kia kìa, các em nhìn lên cành đa mà xem. Xuống thôi!

Nói đoạn, người anh tụt ngay xuống đất. Hai em nhìn lên cây đa, thấy cái trống một đầu xanh, một đầu đỏ. Sợ quá, người em thứ hai cũng vội tụt xuống đất.

Em út vẫn ung dung hái quả, nói với hai anh:

– Thần thì đã làm sao! Em chẳng sợ chút nào.

Nói xong, Út ngắt dâu, ném vào mặt của trống, trống kêu pưng pưng… Bỗng có tiếng từ cây đa phát ra:

– Đứa nào nghịch trống thế?

Hai người anh sợ hãi, run lẩy bẩy, trách:

– Đã bảo mà, trống của thần, cứ ném mãi. Thần quở đấy!

Út vẫn không sợ, nhìn cây đa, đáp:

– Tôi đấy!

Thần lại hỏi:

– Nhà ngươi muốn gì?

– Tôi muốn mượn trống, thần có cho không?

– Mày mượn làm gì?

Út nói:

– Mượn đi hỏi vợ.

Thần bảo:

– Vậy lấy đi. Trống này đánh vào bên xanh làm cho người chết, đánh vào bên đỏ, người chết khắc sống lại. Hãy nhớ cho kỹ. Lấy vợ xong, đem trả ta.

Út thích quá, trèo lên cây đa gỡ trống xuống. Chàng cắt một cây song buộc trống, cùng hai anh mang cày, liềm, trống về nhà.

Ra khỏi rừng, trời đã nhá nhem tối. Ba chàng thấy có ánh lửa trong một hang đá, bèn lần tới. Họ thấy ba người con gái xinh đẹp đang nấu cơm. Út cất tiếng:

– Tối rồi, chúng tôi về nhà không kịp. Cho chúng tôi nghỉ nhờ một đêm?

Một cô nói:

– Đây là hang hùm. Chúng tôi bị nó bắt về đã lâu. Người lạ tới, hùm ăn thịt đấy. Ba chàng mau đi đi. Út bảo:

– Sợ gì hùm, cứ cho chúng tôi nghỉ tạm.

Cô gái nói:

– Không sợ chết thì tùy các chàng, muốn nghỉ thì cứ nghỉ.

Ba chàng lấy lá rải xuống một góc hang nằm ngủ. Nửa đêm, hùm đi kiếm mối về. Ngửi thấy hơi người, nó hỏi các cô:

– Có ai trong hang thế, đem ngay ra cho ta ăn thịt.

Ba nàng ấp úng chưa kịp đáp, út đã vùng dậy chạy ra quát.

– Con hổ kia! Răng mày to bằng ngần nào mà đòi ăn thịt chúng tao? Hùm quát:

– Mở to mắt ra mà nhìn?

Rồi hùm tự đắc nhe nanh. Răng nó to bằng ngón chân cái. Út cười, bảo:

– Thế đã mùi gì. Bì sao được với răng của ta.

Chàng giơ lưỡi cày ra. Thấy lưỡi cày vừa to vừa nhọn, hùm sợ quá. Út nói:

– Vuốt mày sắc được là bao? Hãy đưa chúng tao xem thử. Hùm chìa móng. Út chê:

– Bé thế, cùn thế, làm gì nổi ai! Xem móng của ta đây này!

Rồi chàng giơ liềm ra. Hùm sợ xanh mắt. Út lại bảo:

– Đuôi mày được mấy gang? Có giỏi, so với đuôi của tao!

Hùm chìa đuôi, út lắc đầu:

– Đuôi mày ngắn cũn, đuổi muỗi chẳng nổi còn làm được việc gì! Xem đây!

Nói đoạn, chàng thò cây song ra tít ngoài hang. Hùm hoảng lắm. Nó cố trấn tĩnh, gầm lên một tiếng vang động cả vách núi. Nó nói:

– Đã nghe tiếng tao gầm chưa? Nếu mày không kêu to được như thế, mau ra đây cho tao ăn thịt.

Út lấy trống, gõ vào đầu xanh. Tiếng trống vừa dứt, hùm lăn ra chết. Ba anh em đưa các cô gái về làng, mỗi người cưới một nàng làm vợ. Ngày ngày, họ mang trống thần đến những nhà có đám ma, cứu người chết sống lại.

Thấy út đã cưới vợ, nhớ lời hẹn cũ, thần cây đa đến đòi trống về. Từ đấy, nhà chàng không cứu thêm được người nào nữa. Tuy nhiên, đã thành lệ, mỗi khi đưa ma, cúng tế, người ta đều khua chiêng, gõ trống.

Nguồn: Hợp tuyển Truyện cổ tích Việt Nam,
Lữ Huy Nguyên, Đặng Văn Lung sưu tầm, biên soạn,
Nxb. Giáo dục, H., 1996