Skip to main content

Khám phá thế giới cổ tích Việt Nam qua các câu chuyện này! Những câu chuyện dân gian đầy ý nghĩa như sẽ đưa bạn về tuổi thơ cổ tích. Cùng tôi nhớ lại các truyền thuyết về lòng tốt, sự thông minh và bài học cuộc sống nhé!

Nghe đầy đủ playlist Truyện Cổ Tích Việt Nam Chọn Lọc: https://bit.ly/4itLLj9
Cây Tre Trăm Đốt, Chàng Ná, Chàng Mồ Côi Và Quan Tể Tướng https://youtu.be/3N55fbpgvcM

Cây Tre Trăm Đốt

Đời xưa có một trưởng giả gian ác, xảo trá. Hắn ta dùng đủ mọi thủ đoạn để bóc lột người ở và người làm thuê cho hắn, nhờ đó mà hắn trở nên giàu có nhất vùng. Hắn có người con gái út có nhan sắc, chưa chồng. Trong nhà có anh Khoai, ở với hắn từ thuở nhỏ, làm đủ trăm công nghìn việc nhọc nhằn. Năm anh lớn lên, được mười tám, đôi mươi, sợ anh đi nơi khác, một hôm hắn

gọi anh lên bảo:

– Mày chịu khó ở với tao làm lụng cho thật giỏi, thức khuya, dậy sớm, siêng năng, rồi tao gả cô út cho mày.

Anh Khoai nghe nói tưởng thực, mừng lắm, từ đó lại làm việc gấp năm gấp mười lần. Được ba năm, cô út bấy giờ đã lớn lắm rồi. Nhân trong vùng có một cai tổng khét tiếng giàu có đến hỏi cô út cho con trai hắn, lão trưởng giả nhận lời và chuẩn bị làm lễ cưới linh đình.

Thấy mình bị lừa, anh Khoai tức lắm, đến gặp lão trưởng giả để hỏi chuyện. Anh bảo:

– Ông đã hứa gả cô út cho tôi, sao bây giờ ông lại nuốt lời mà gả cho kẻ khác?

Hắn ta hầm hầm nổi giận, định đánh cho anh một trận, song nghĩ lại, hắn lại thôi, hắn trả lời anh rằng:

– Ấy! Tao thấy rằng năm nay cô út cũng đã lớn rồi, cho cưới đi thì vừa. Tao chuẩn bị đám cưới là chuẩn bị cho mày đấy chứ! Nhưng mày mà muốn cưới ngay thì mày phải làm cho tao cái việc này: Mày chịu khó lên rừng tìm lấy một cây tre có một trăm đốt, gánh về đây để vót đũa dùng trong cỗ cưới, thì tao cho mày cưới cô út ngay.

Khoai thật thà tin, lập tức vác dao lên rừng. Nhưng hết ngày nọ đến ngày kia, hết khu rừng này đến khu rừng khác anh tìm đâu cũng không ra cây tre có đủ trăm đốt. Thất vọng, anh ngồi trong rừng khóc hu hu.

Bỗng anh thấy một ông lão đầu tóc bạc phơ, da đỏ hồng hào, mắt sáng, miệng tươi, khoan thai chống gậy đến gần anh hỏi:

– Làm sao con khóc?

Khoai thưa rõ đầu đuôi câu chuyện.

Ông lão nghe xong, bảo rằng:

– Con đi chặt cho đủ một trăm đốt tre, mang về đây cho ta.

Anh nghe lời, vác dao chặt bên tả, bên hữu, chỉ một loáng đã đủ một trăm đốt tre.

Ông già khẽ bảo: “Khắc nhập! Khắc nhập!” Vừa đọc xong, thì trăm đoạn tre đang nằm ngổn ngang, tự nhiên chạy tới với nhau, nối liền lại thành một cây tre đủ trăm đốt.

Khoai mừng quá, toan sụp xuống lạy tạ ông lão nhưng ông cụ đã biến đi đâu mất rồi. Lúc ấy, anh mới biết ông là Bụt. Anh ghé vai định vác tre về, nhưng không làm thế nào mà đi được, vì tre dài quá, nó cứ vướng vào cây này cây khác giữa rừng. Lo buồn, anh lại ngồi xuống khóc hu hu. Tức thì anh lại thấy ông già hồi nãy hiện lên. Ông hỏi:

“Làm sao con khóc?”

Anh kể rõ sự tình. Bụt đưa tay chỉ vào cây tre mà đọc: “Khắc xuất! Khắc xuất!”

. Tự nhiên cây tre lại rời ra từng đốt. Anh bó lại làm hai bó, gánh về nhà.

Lúc về tới nơi thì thấy hai họ đông đảo đang ăn uống ồn ào, và đầy sân bàn này cỗ nọ đang chực sẵn để rước dâu đi. Anh tức quá, xông thẳng tới trước mặt lão trưởng giả mà hỏi, thì hắn cả cười bảo anh rằng:

– Tao bảo mày đốn cho được một cây tre cao một trăm đốt, chứ tao có bảo mày đốn một trăm đốt tre đâu!

Cả hai họ ngừng tay đũa, đều cười theo, chế nhạo anh Khoai khờ khạo.

Anh bảo lão phú ông ra sân mà xem. Rồi anh đọc khẽ: “Khắc nhập! Khắc nhập!”

. Tức thì trăm đốt tre dính liền với nhau thành một cây tre dài và dính

luôn cả lão trưởng giả vào đấy, hắn cố rứt mấy cũng không ra. Lão cai tổng thông gia và con trai hắn thấy thế chạy ra định gỡ, anh Khoai đợi hai tên ấy tới gần, lại khẽ đọc: “Khắc nhập! Khắc nhập”. Lập tức lão cai tổng và con đều dính vào với lão trưởng giả, càng giãy càng đau, cả ba ôm đầu kêu khóc. Cả hai họ lúc bấy giờ tái mặt sợ hãi, không còn ai nghĩ đến chuyện ra gỡ hoặc chế nhạo nữa. Họ mặc áo rộng, đứng sắp hàng, van xin anh Khoai thả ba người ra.

Chờ một lúc lâu, anh Khoai mới đọc khẽ:

– Khắc xuất! Khắc xuất!

Bấy giờ hai thông gia và chú rể mới rời nhau ra được, và cây tre cũng đổ xuống, chia thành trăm đoạn.Họ trai thoát nạn, cuốn gói ra về và lão trưởng giả ngay ngày hôm sau phải gả cô út cho anh Khoai.

Trần Thanh Mai kể;

Nguồn: Hợp tuyển Văn học Dân gian các dân tộc, tập I;

Đặng Văn Lung, Trần Thị An biên soạn,

Nxb. Văn hóa dân tộc H., 1994.

Chàng Ná

Ngày xưa, khi con thỏ rừng còn biết nói chuyện với người, ở làng nọ có một bà già tên là Giá. Chồng bà Giá chết rất sớm, để lại cho bà một con trai tên là Ná. Da Ná đen bóng như bồ hóng, mắt Ná to và sáng, ngực Ná nở tròn, căng như chiếc nỏ lên dây. Suốt ngày Ná theo mẹ ra đồng cày bừa, làm cỏ, cấy lúa, lúc xuống suối tát cá, khi vào rừng bứt mây, đốn củi. Ná còn nhỏ tuổi

mà sức lực đã khỏe bằng gấp mười người lớn. Khúc gỗ Ná vác, con voi kéo cũng không nổi. Tay Ná có thể nắm chặt sừng con trâu mộng đưa đầu nó lên cao hơn đầu Ná. Ná ăn rất nhiều, mẹ nấu cho một nồi cơm, Ná ăn sạch, nấu đến nồi ba, nồi năm, nồi bảy, rồi nồi mười, Ná cũng ăn ráo. Một hôm, mẹ bị cảm nắng, bỏ ăn, bỏ uống, nằm li bì hơn bảy ngày đêm. Ná dắt con chó vào rừng, tìm lá cứu mẹ.Leo tới lưng chừng núi, con chó bỗng dướn cổ sủa vang. Ná cứ cắm cổ đi, chẳng để ý gì đến chung quanh. Bỗng con chó giựt dây chạy biến. Ná nhìn lại, thấy nó đang đuổi riết con mang lửa (1) rất đẹp. Ná vội vã chạy theo. Đến đỉnh núi cao, con chó bị lạc mồi, quay húc mõm vào tay chủ. Ná nhìn sang bên trái, thấy một cụ già râu bạc, đầu chít khăn trắng, cầm giáo dài, vẫy tay gọi Ná đến gần, bảo:

– Sao anh lại dám đem chó vào săn bắn trong rừng thiêng của ta? Đây là rừng của Tiên. Con mang lửa anh đuổi theo khi nãy chính là con trai thứ chín của ta đi dạo chơi đấy.

Nhìn hình dong quắc thước lạ thường của ông lão, Ná đoán ông là Tiên. Chàng thưa với Tiên vì mẹ ốm nặng, chàng phải đi tìm thuốc về chạy chữa, nên mới lạc đến đây. Nghe Ná kể về cảnh nghèo khổ và cảm động về lòng hiếu thảo của chàng trai, Tiên ông đưa cho Ná một viên sỏi trắng và dặn:

– Con đem viên sỏi này về nhà, để trên một thân cây trên núi. Chờ đủ ba ngày ba đêm, bao giờ nghe tiếng gà gáy o o trong núi, con chạy lên, sẽ thấy có thuốc đem về cứu mẹ. Ná cúi chào Tiên ra về, làm đúng như lời Tiên dạy. Đúng ba ngày, ba đêm, vào lúc trời còn tờ mờ sáng. Ná đang ngồi trong bếp bỗng nghe có tiếng gà gáy rất to trên núi cao. Mừng quá, Ná chạy biến xuống cầu thang, băng tắt qua nhà đập lúa (2), qua đập chắn cá, leo vội lên chỗ để viên sỏi trắng. Tới nơi, Ná nhìn kỹ chẳng thấy gà đâu cả, nhưng từ giữa thân cây mọc lên một cây nho nhỏ, lá xanh biếc, củ còn đeo dưới gốc. Biết là Tiên giúp thuốc cho mẹ, Ná bưng lấy cây quý, chạy vội về nhà. Chàng lấy một củ, cắn thử xem. Lạ lùng thay, củ rỉ những dòng nước đỏ tươi, chàng soi củ vào ánh lửa ngắm xem, củ ánh lên nhiều màu xanh, đỏ, vàng tươi, đẹp như cầu vồng mới mọc (3).

————

(1) Một loại hươu nhỏ.

(2) Nhà để đập lúa.

(3) Đồng bào Hrê gọi loại thuốc này là man gang.

Ná đem nửa củ cho mẹ ăn. Chỉ một lúc sau, mẹ Ná thấy khỏe ngay, ngồi dậy được, nói cười được, đi ra suối đội (4) nước được. Thấy lạ, Ná ăn thử một miếng. Vừa ăn xong, người Ná bỗng trở nên to cao lạ thường, chân to như gốc cây Kơ-rây, tay như cành ké, vai chàng to bằng ba bốn vai con trâu mộng ghép lại. Chàng vừa nhấc bước thì sàn nhà chao đi chao lại, cột kèo

nghiến răng rắc, muốn đổ. Chàng bước xuống cầu thang, cầu thang lún sâu xuống đất. Ná nắm cây mít trước nhà lắc thử; Ná mới lắc qua, chưa kịp lắc lại, thì gốc cây mít đã bật khỏi đất.

————-

(4) Đồng bào Hrê đội nước trên đầu như người Chàm.

Mẹ về thấy Ná khác nhiều quá, kêu lên. Dân làng chạy đến xem. Hỏi ra mọi người mới biết Ná vừa uống thuốc tiên xong. Có cái khổ là càng to lớn, Ná càng ăn nhiều hơn. Một bữa ăn làm vợi nửa bịch thóc của mẹ. Mẹ nuôi không nổi, dân làng nuôi giúp, nhưng rồi cũng không nuôi nổi. Họ bàn nhau vào núi kiếm cây, làm cho Ná một cái nỏ thật to để Ná đi săn voi. Buổi sáng hôm ấy, tất cả trai tráng đều theo cụ Giá vào núi tìm một cành to nhất, lùng những dây mây bụ nhất, những gốc lồ-ô, gốc vầu già nhất và làm cho Ná một cái nỏ và một bó tên. Ná cảm tạ dân làng và đi săn. Từ đó ngày nào dân làng cũng có thịt voi, thịt hổ, thịt trâu rừng, bò rừng do Ná hạ được, chia nhau ăn uống no nê. Nhà Ná cũng treo đầy xương, sừng, da các con thú lớn (5).

————–

(5) Người Tây Nguyên có tục săn bắn được con thú nào thì giữ lại cái xương, một mảnh da để làm kỷ niệm, cho mọi người phục tài săn bắn của mình.

Ná ở với mẹ được bốn, năm năm. Hôm đó, tin từ dưới biển lớn đưa lên, báo có một con quỷ chuyên ăn thịt người và bắt cóc phụ nữ. Hắn ở một mình ngoài đảo Lý Sơn. Dinh cơ của hắn gồm cả một dãy hầm tối tăm, hiểm trở. Sức hắn có thể đánh chết một lúc hàng trăm trai tráng lực lưỡng. Mỗi lần đi đâu, hắn phù phép làm cho những người con gái mà hắn bắt được thu hình nhỏ lại bằng hột mít và hắn cho tất cả mọi người vào trong cái ống tre, có chạm trổ những hình thù kỳ quái. Tin đó lọt vào tai Ná. Ná xin dân làng, xin mẹ cho đi giết ác quỷ. Dân

làng góp mỗi người một hũ rượu cần, một chiếc bánh tét, một gùi gạo, rồi đánh túc chinh (6) mở hội mừng Ná lên đường.

————-

(6) Đánh chiêng, gồm một chiêng lớn và hai chiêng con.

Đầu chít khăn đỏ vai vác giáo dài, tay cầm tên nỏ, Ná chào bà con xuống núi. Chàng đi ròng rã ngót chín ngày đường, băng qua không biết bao nhiêu đèo cao, suối sâu, rừng rậm sông dài, mới đến bờ biển cả. Đảo Lý Sơn ở cách xa đất liền, dài bằng một quãng đường mà sức một con ngựa khỏe phải phi ngót một ngày trời. Ná leo lên một chiếc thuyền, thuyền chòng chành không chịu nổi sức nặng của Ná, nước mấp mé, tràn vào, rồi thuyền chìm nghỉm. Hai chiếc thuyền ghép lại rồi ba, bốn chiếc thuyền lớn ghép lại, cũng không chở nổi Ná. Tức quá, Ná ngửa mặt lên trời cầu Tiên giúp. Chàng vừa gọi xong, thì trời nổi mưa to gió lớn, nước xối rào rào. Từ trên nguồn bỗng trôi về một bè chuối rất lớn, dạt vào chân Ná. Ná sung sướng bước lên. Trời lại quang đãng, chàng đi trên mặt biển lớn, chừng hai ngày đêm thì đến đảo Lý Sơn. Ná bước lên bờ, rẽ lau lách đi vào động quỷ. Bốn bề im lặng như chết. Chẳng có bóng dáng một người nào. Ná đi miết, đi mãi; luồn qua động này tới động khác, Ná cũng không gặp

một ai. Đến một cửa hang thật lớn, nhìn thấy bếp lửa bốc khói, Ná dừng lại, đoán đây là nơi con quỷ ở. Nhưng chàng ngồi đợi một lúc lâu cũng không thấy hắn đâu cả, mà chỉ thấy một ống tre đậy nắp thật kỹ cứ lăn qua lăn lại dưới chân. Bực mình, Ná cầm lên lắc lắc, rồi mở bật nắp ra. Một hột mít vỏ hồng rơi từ trong ống xuống đất. Chỉ trong chớp mắt, hột mít biến thành người con gái nhan sắc tuyệt trần, bẽn lẽn nhìn Ná. Ná hỏi thì người con gái cho biết rằng, nàng là con út vua biển, bị quỷ bắt về làm vợ. Ban ngày quỷ lên núi luyện phép, đêm hắn mới về. Mỗi lần hắn đi đâu, hắn dùng tà thuật biến nàng thành hột mít và đem nhốt trong ống tre.

Nghe xong, Ná bàn với cô gái tìm cách giết quỷ. Nàng Trát-lem (tên người con gái đẹp ấy) cho Ná biết là con quỷ này chỉ có sức mạnh khi có kẻ mở mắt như hắn. Còn nhắm mắt thì, hắn chịu, vì phép thuật của hắn làm chết người, làm mê mẩn, làm nứt da, gãy xương bao giờ cũng phải lọt qua hai con mắt thì mới làm cho người ta chết được. Trát-lem nấu cơm canh cho Ná ăn uống no nê. Ăn xong, Ná đem giấu người con gái xinh đẹp của vua biển vào chiếc gùi mà chàng đang địu trên lưng. Tối đến, sau khi con cú kêu dứt chín tiếng thì con quỷ ác về. Hắn rống ồ ồ, mùi hôi thối xông ra nồng nặc. Đến hang lớn, hắn nhặt cái ống tre và mở ra xem. Không thấy nàng Trát-lem, hắn gầm thét điên cuồng. Vừa lúc ấy, Ná nấp trong góc hang, lên nỏ, cắm tên thuốc độc nhắm ngực hắn bắn liền bảy phát. Hắn quay lại trợn mắt phù phép và phun hơi độc. Theo lời nàng Trát-lem, Ná nhắm mắt lại, cầm giáo xông ra đánh quỷ. Hai bên đánh nhau từ tối hôm trước đến sáng hôm sau thì quỷ gục ngã. Ná lấy giáo hất con quỷ xuống

biển. Ná đưa nàng Trát-lem xuống bè, trở về làng. Họ kết duyên nên vợ nên chồng.

Nhưng từ ngày lấy Trát-lem làm vợ, Ná vẫn mải đi săn bắn, đánh quỷ ở mạn đông, mạn tây, chẳng săn sóc gì vợ cả. Trát-lem cảm phục chồng, đưa cho Ná một cái hoa tre màu đỏ thắm như huyết rất đẹp và dặn chồng: “Bao giờ đi xa quá, chàng gặp nguy nan gì, hay nhớ đến tôi thì chàng cầm cây bút tre này vẽ hình tôi xuống đất, vẽ xong, chàng khoanh tròn lại, thì tôi sẽ hiện ra ngay, nếu quên khoanh tròn lại thì chàng sẽ mất vợ tức khắc”.

Một hôm, Ná đi đánh một con quỷ ở trên vùng Sác-lây. Con quỷ này có tài biến thành núi, rồi lại hóa thành người. Mỗi lần bị ai đánh, hắn hóa thành núi, rồi biến ra hàng loạt người, kẻ ngồi đánh chiêng, người thì múa hát rất hay, ai không biết đi vào nghe, thì hắn khép vòng vây lại cho chết, hoặc làm cho núi đổ đè bẹp.

Chàng đã đọ sức với con quỷ hơn tám mươi ba ngày, mà vẫn không thắng được nó. Một hôm, sực nhớ lời vợ dặn, Ná rút hoa tre cắm trên tóc, vẽ hình vợ dưới đất. Vợ chàng liền hiện ra, mách cho Ná biết tà thuật của con quỷ ở vùng này. Chàng mừng quá, lên nỏ cắm tên thuốc độc bắn tới tấp vào núi. Con quỷ bị ngấm thuốc độc, ngã vật xuống đất. Nhưng vì quá say mê giết quỷ, Ná quên không khoanh tròn hình vợ lại, nên nàng Trát-lem bị nước từ dưới biển dâng lên chớp nhoáng, cuốn nàng trở về với đại dương bao la. Mất vợ, Ná hối hận, thương tiếc quá, khóc đêm, khóc ngày, khóc mãi rồi chết.

Trời thương Ná, cho Ná biến thành cây dõn, cành rất dẻo, lõi rắn như thép. Cây dõn mọc ở bên bờ giếng dưới chân núi. Bóng cây dõn lúc nào cũng in xuống mặt nước. Thanh niên trai tráng trong làng thường tìm cành dõn làm cánh nỏ cho chắc. Các cô gái, mỗi lần đi hái rau, thấy cành dõn ấp bóng xuống mặt nước, thường hát cho nhau nghe:

Thương anh Ná gan dạ, (1)

Đi đánh quỷ cứu người.

Nhưng quên lời vợ dặn,

Đã biến thành cây dõn,

Đêm ngày in bóng xuống nước…

Thương anh Ná gan dạ,

Đời đời ôm hình ảnh vợ trong lòng.

———-

(1) Lời hát là “ngày tơ nơ” có nghĩa rộng: Người dũng cảm, không sợ chết, chẳng lùi bước trước nguy nan, là con chim đầu đàn, là người cầm quân xứng đáng.

Nguồn: Truyện cổ Việt Nam, tập 2,

Nxb. Văn học, H., 1983.

Chàng Mồ Côi Và Quan Tể Tướng

Ngày xưa, có một anh chàng trẻ tuổi không cha không mẹ nhưng thông minh, lanh lợi và rất cần cù, người ta gọi chàng là Mồ Côi. Không những chàng chăm chỉ việc nhà mà còn hay giúp bà con xóm giềng; chàng vui tính và lễ độ với mọi người. Ở đâu có mặt chàng thì ở đó có cảnh nhộn nhịp tươi vui. Hễ nhà nào có việc khó khăn gọi tới chàng thì chàng sẵn sàng đến làm

giúp rất nhiệt tình.

Một hôm vào rừng kiếm củi, chàng gặp một đạo sĩ, đạo sĩ thấy chàng có sức khỏe bèn dạy chàng phép bắn nỏ và tặng một cái nỏ có lẫy bằng nanh sư tử. Từ đó chàng bắn rất giỏi, có ngày chàng bắn một lúc hạ cả một đàn thiên nga hơn một trăm con đem chia cho dân làng. Thấy chàng có tài lại tốt bụng, dân làng tặng cho chàng cái tên là “Anh hùng làng ta”.

Một buổi nọ, dân làng tụ họp ở nhà công quán để đón quan tể tướng của triều đình về thăm bản. Khi thấy quan đến, các vị đàn anh đứng dậy chào đón quan, còn các ông già bà cả, các trai làng thì vẫn thản nhiên nói cười ầm ừ dường như không biết có quan lớn triều đình đến.

Sau khi quan tể tướng đã vào ngồi ở trên giường cao, Mồ Côi mới đi tới. Thấy Mồ Côi đến, tất cả mọi người, từ các bô lão đến các bậc đàn anh, các chàng trai trẻ và các em bé đều nhao nhao cất tiếng chào hỏi:

– Chào “Anh hùng làng ta”!

-“Anh hùng làng ta” đã đến!

– Mời “Anh hùng làng ta” lên ngồi giường trên!

Rồi các bậc đàn anh mời Mồ Côi lên ngồi ở giường ngang với quan tể tướng. Mồ Côi không từ chối, chàng chào mọi người rồi đi thẳng lên giường trên ngồi ngang hàng với quan tể tướng. Chàng nói nói cười cười với tất cả mọi người, làm cho buổi đón tiếp quan lớn triều đình trở nên vui vẻ và nhộn nhịp hẳn lên. Thấy vậy, lão quan tức giận lắm. Lão nghĩ bụng: “Cái thằng ‘Anh hùng làng ta’ là thằng nào mà lại dám ngỗ ngược như vậy? Triều đình đặt ra cái chức này từ bao giờ và phong tặng cho cái thằng này lúc nào mà sao ta không biết? Nó là cái hạng gì mà lại được tất cả dân bản kính trọng, đón tiếp niềm nở hơn ta?” Lão quan càng nghĩ càng tức, lão bực bội bỏ ra về. Sau này, tể tướng mới biết “Anh hùng làng ta” là cái thằng không cha không mẹ ở làng ấy. Càng nghĩ tới “Anh hùng làng ta” lão càng căm giận, muốn trừng trị hắn một phen cho hả lòng ghen tức. Một hôm, nhà vua định sai một viên quan lớn đi hỏi con gái vua Thủy tề về làm vợ. Nhà vua đem việc ấy ra bàn với tể tướng, thấy việc đi xuống thủy cung là một việc rất khó khăn và nguy hiểm, tể tướng bèn tâu vua gọi Mồ Côi đến giao việc. Lão có ý định: “Nếu Mồ Côi không đi thì sẽ vin cớ là không tuân lệnh nhà vua, nếu đi mà không được việc thì lấy cớ là không tận tụy với công việc triều đình, cả hai đường đều khép vào tội chết được cả” . Nhà vua nghe lời tể tướng gọi Mồ Côi đến giao cho việc ấy. Mồ Côi đến triều, tâu với

vua rằng:

– Tôi chưa hề biết lùi bước trước một khó khăn nào. Chuyến này tôi đi, tôi tin sẽ làm nên việc, nhưng ở trong triều, các hàng quan văn, các viên tướng võ, đứng ngồi đông như ong như kiến, sao bệ hạ lại không chọn cử một vài người đi làm công việc này. Bệ hạ sai đến tôi chả hóa coi các quan, các tướng không ra gì cả sao? Vả lại tôi đi như vậy có phải tranh mất công của các quan, các tướng không? Nghe Mồ Côi nói, nhà vua thấy có lý, quay lại nhìn tể tướng, tể tướng liền quát lớn:

– Này! Cái thằng “Anh hùng làng ta” kia! Triều đình có nhiều quan, nhiều tướng thật nhưng chưa ai mang danh anh hùng. Nhà ngươi đã mang danh anh hùng sao lại dám chối lệnh vua, nếu nhà ngươi từ chối hoặc đi mà không thành việc thì sẽ bị tội chém đầu. Ngươi phải đi ngay và phải dốc sức làm cho bằng được.

Mồ Côi nhận lời. Chàng bảo nhà vua cấp cho một ngàn lượng vàng làm phí tổn và một con thuyền. Rồi chàng chèo thuyền rẽ sóng ra khơi tìm đến Thủy cung. Trên người chàng chỉ có một cái nỏ và một bó tên là vật hộ thân.

Chàng ra khơi được hai ngày thì gặp một cơn giông lớn, thuyền bị vỡ tan tành. Chàng bình tĩnh bám chặt vào một tấm ván nổi lềnh bềnh. Sóng bể đánh giạt tấm ván, đưa chàng vào một hòn đảo hoang vu ở giữa biển cả. Chàng phải tha thẩn đi khắp nơi trong hoang đảo tìm nhà cửa hay hang hốc để tạm tránh nắng mưa. Chàng đến một bãi cát bên một con suối, nhìn thấy ở cuối dòng xa xa có ba cô gái đang tắm, chàng mừng rỡ biết là ở đây có người, bèn nấp vào khe đá chờ khi nào ba người tắm xong sẽ đến hỏi chuyện. Chợt một con đại bàng tinh bay vù đến, sà xuống bên bờ suối, tha tất cả áo xiêm của ba cô đi mất. Ba cô vội chạy lên, kêu la ầm ĩ, con đại bàng như có ý trêu tức lượn đi lượn lại, ba cô khóc lóc, nước mắt giọt ngắn giọt dài.

Thấy vậy, Mồ Côi đứng lên, giương nỏ, bật lẫy. Mũi tên của chàng vút bay đi, cắm phập vào cánh con đại bàng. Đại bàng gãy cánh ngã nhào xuống bãi cát. Ba cô gái reo mừng chạy lại để lấy quần áo. Tuy bị trúng tên, đại bàng tinh vẫn chưa chết. Thấy ba cô gái chạy đến, nó bỏ quần áo lại rồi chực ôm ngay lấy cả ba cô mang đi.Mồ Côi lại giương nỏ bắn, mũi tên thứ hai của chàng vút bay đi cắm phập vào cổ họng đại bàng. Đại bàng tinh lăn quay ra chết, ba cô gái được cứu thoát, vội vàng chạy trở về lấy quần áo mặc. Sau khi ba cô đã quần áo chỉnh tề, Mồ Côi liền chạy đến hỏi thăm. Lúc này chàng mới biết đó là ba nàng tiên ở trên trời xuống tắm. Ba nàng hỏi chuyện chàng, chàng nói rõ sứ mệnh của mình và đầu đuôi những việc đã xảy

ra trên con đường chàng từ nhà vượt biển đến đây. Mồ Côi nói tiếp:

– Nay tôi đang bơ vơ ở trên hòn đảo hoang vu này chưa tìm được nơi trú chân. Nhưng điều lo nhất là việc đi xuống Thủy cung hỏi con gái vua Thủy tề cho vua nước tôi. Tôi chưa biết đi bằng cách nào và đi lối nào để chóng đến Thủy phủ.

Ba nàng tiên nói:

– Chàng đã giết đại bàng tinh cứu chúng tôi, nay chúng tôi sẽ giúp chàng để đền ơn chàng. Vua Thủy tề chỉ có một người con gái, vua hứa sẽ gả cho người nào sắm được ba thứ sính lễ sau đây: Ba mớ tóc tiên, ba chum vàng cốm, ba yến râu rồng. Có đủ bằng ấy thứ thì mới có thể hỏi được. Nghe nói vậy, Mồ Côi hỏi:

– Ba thứ vật quý ấy lấy ở đâu? Hiện nay không có thuyền tôi sẽ đi bằng cách nào?

Một nàng tiên trả lời:

– Chúng tôi đã rõ mọi băn khoăn của chàng rồi. Chúng tôi còn biết rằng nếu lần này chàng không hỏi được vợ cho nhà vua thì quan tể tướng sẽ chém đầu chàng. Nhưng tất cả mọi khó khăn ấy, chàng sẽ vượt qua được hết. Trước hết, chúng tôi cho chàng một mớ tóc nhỏ, chàng hãy cất giữ cẩn thận. Ba chum vàng cốm thì chàng đào lấy ngay ở dưới gốc cây mận, cây mơ và cây đào cao to nhất và sai quả nhất ở trong vườn nhà quan tể tướng. Còn ba yến râu rồng, chàng cũng chỉ việc lặn xuống góc đằng đông cái ao nhỏ ở ngay đằng sau dinh tể tướng mà lấy. Nói xong nàng quay lại nhìn hai nàng tiên bạn. Hai nàng cũng mỉm cười gật đầu, rồi ba nàng cắt đưa cho chàng mỗi người một mớ tóc đen nhánh, óng mượt, thoang thoảng mùi hương.

Mồ Côi đón lấy ba mớ tóc và cất vào túi áo. Ba nàng trao cho chàng một lá cây rồi dặn:

– Đây là chiếc thuyền. Nó sẽ đưa chàng trở về triều đình rồi sau này nó lại dẫn chàng tới thủy cung. Khi ra đến bờ biển hoặc bờ sông, chàng hãy đặt nhẹ cái lá xuống nước, nó sẽ hóa thành một chiếc thuyền rồng rất nhẹ và rất đẹp. Chàng xuống thuyền rồi nói: “Thuyền rồng ơi! Thuyền rồng! Mau mau làm theo ý của chủ!” Thế là nó sẽ đưa chàng nhanh chóng đi đến nơi mà chàng định đến. Khi đến bến, chàng lên bờ rồi bảo: “Thuyền rồng ơi! Thuyền rồng! Mau mau về theo ta”

Thế là con thuyền sẽ trở lại nguyên hình cái lá. Chàng hãy cất chiếc lá vào túi. Mồ Côi đón lấy chiếc lá rồi hết lời cảm tạ ba nàng tiên. Dặn dò chàng xong, ba nàng tiên dang cánh lướt nhẹ bay thẳng về trời. Mồ Côi đi thẳng ra bờ biển. Chàng thả chiếc lá xuống nước. Quả nhiên chiếc lá biến thành chiếc thuyền rồng rất đẹp, đưa chàng về đến bến ngự; chàng lên bờ gọi thu lại

thuyền. Tự nhiên thuyền nhỏ dần dần bằng lá cây. Sau khi cất vào túi áo, chàng vào triều ra mắt nhà vua để xin hai thứ lễ vật quý cần thiết dâng vua Thủy tề.

Chàng vào cung vua giữa lúc đang có buổi chầu, bách quan văn võ đang tụ họp tại sân rồng. Thấy Mồ Côi đi chưa được bao lâu mà đã trở về, lại không có gì, tể tướng liền thét quân lính trói lại để hành hình. Mồ Côi không chút sợ hãi, chàng ung dung rẽ đám lính đi thẳng vào gặp vua, nói việc đã xong và xin vua cấp cho ba chum vàng cốm và ba yến râu rồng để làm sính

Lễ. Nghe kể tới các thứ vật ấy, nhà vua cau mày nói:

– Các thứ đó tìm ở đâu ra được bây giờ. Ta cho phép ngươi đi tìm hễ thấy ở đâu có thì lấy…

Mồ Côi vâng dạ rồi ra đi. Chàng lấy số vàng của vua đã chi phí cho việc đi đường, đem về chia cho bà con trong bản.

Vắng Mồ Côi lâu ngày, bà con rất nhớ. Thấy chàng trở về, mọi người trong bản đều đến thăm. Mồ Côi kể cho mọi người nghe mọi chuyện đã xảy ra rồi đem vàng chia cho tất cả mọi người. Ai ai cũng cảm phục Mồ Côi nghèo mà có lòng tốt. Sau ba ngày, Mồ Côi trở lại triều đình. Nhà vua thấy chàng liền cho họp bách quan chư tướng để bàn cách tìm kiếm vàng cốm và râu rồng. Quan tể tướng lên tiếng mắng Mồ Côi:

– Đã là anh hùng thì liệu tìm giúp nhà vua chứ. Nếu cần cái gì ngươi cũng đến hỏi triều đình thì liệu triều đình biết trả lời thế nào, và biết kiếm đâu ra. Ngươi phải đi tìm cho ra, cứ nay lần mai lữa thì có ngày mất đầu, nghe chưa!

Mồ Côi khoan thai nói:

– Tôi đã đến thủy cung gặp vua Thủy tề rồi, vua Thủy tề nói muốn hỏi lấy được công chúa thì phải có ba mớ tóc tiên, ba chum vàng cốm, ba yến râu rồng làm sính lễ. Có ba thứ lễ vật đó thì muốn đón công chúa lúc nào cũng được. Sau khi ở thủy cung ra, tôi đã lên trời gặp Ngọc hoàng xin được ba mớ tóc tiên rồi…

Nói tới đây, chàng bèn rút ở trong túi áo lấy ra ba mớ tóc tiên đen nhánh, óng mượt và thoang thoảng mùi hương đưa cho vua xem. Nhà vua đón lấy ba mớ tóc tiên ngắm nghía rồi hết lời khen ngợi, vua nói:

– Còn vàng cốm và râu rồng, ngươi biết ở đâu có thì cứ đi mà lấy! Ai chối từ không cho ta sẽ hạ chiếu chỉ.

Mồ Côi tâu vua:

– Vậy thì xin bệ hạ hãy ra chiếu chỉ ngay cho, hai món vật quý ấy chỉ có quan tể tướng của triều đình mới có.

Tể tướng tái mặt, căm tức nhìn Mồ Côi. Lão nghĩ bụng: “Chết thật! Cái thằng này làm sao mà nó biết rõ mồn một!”Quả là trong mấy chục năm trời làm tể tướng, nhờ tài vơ vét, lão mới gom góp được ba chum vàng cốm và ba yến râu rồng mà cất đặt vào nơi rất kín để làm của dưỡng lão sau này. Tuy vậy lão vẫn tin rằng Mồ Côi không thể nào tìm kiếm được nơi cất giấu của quý nên lão nói:

– Được! Bỏ của quý ra để cưới vợ cho nhà vua ta không tiếc, nhà ngươi chỉ không đúng sẽ phải tội chém đầu.

Mồ Côi mỉm cười, chàng mời vua cùng bách quan văn võ đi theo chứng kiến. Vừa bước chân vào vườn quả của nhà tể tướng, Mồ Côi nhìn khắp một lượt. Ở đây có tất cả ba trăm cây mận, ba trăm cây đào và ba trăm cây mơ. Trong bụng tể tướng nghĩ: “Tìm cho ra được mấy chum vàng cũng còn mệt”, nhưng hắn đã xỉu đi khi thấy Mồ Côi chỉ cho quân lính đào rất đúng chỗ chôn ba chum vàng cốm, mặt mày hắn tím bầm lại như gà bị toi, răng nghiến ken két. Chỉ một lúc quân lính khiêng lên ở mỗi gốc cây một chum vàng đầy ắp. Tất cả các quan, các tướng và nhà vua hết sức kinh ngạc, không ngờ Mồ Côi lại thông tỏ đến nhường ấy. Đoàn quan quân lại theo Mồ Côi đến ao sau dinh tể tướng. Ở đây chàng tự lặn xuống ao lấy râu rồng, chàng nhằm đúng góc có râu rồng mà lặn thẳng xuống. Mỗi lần lặn xuống ngoi lên, chàng lại ôm lên một yến râu rồng. Chàng lặn ba lần lấy lên đủ ba yến. Vua và các quan ai nấy đều cảm phục. Duy chỉ có lão tể tướng là căm gan tím ruột. Nhà vua tiến lại vỗ vai chàng, hết sức khen ngợi và hứa sẽ thưởng công xứng đáng khi chàng làm xong việc.

Sáng hôm sau, Mồ Côi đem theo lễ vật ra đi, chiếc lá vừa thả xuống biển, thuyền rồng đã hiện ra đưa chàng thẳng đến Thủy cung. Vua Thủy tề chỉ có một nàng công chúa nên yêu quý vô cùng. Bao nhiêu vị vua các nước láng giềng đã từng sai sứ đến cầu hôn, nhưng đều không thành chỉ vì không đủ ba thứ lễ vật vua thách. Lần này Mồ Côi đem theo đủ sính lễ, vua Thủy tề không thể từ chối được đành phải cho công chúa theo Mồ Côi lên trần. Lấy được công chúa Thủy cung làm vợ, nhà vua hết sức sung sướng. Trong buổi lễ, nhà vua ra chiếu chỉ phong chàng chức Thái bảo. Thấy vậy lão tể tướng tức tối đến nổ mật nổ gan lăn đùng ra chết.

Theo lời kể của cụ Hoàng Đức Bảng, xã Hồng Việt, Hòa An, Cao Bằng

Nguồn: Truyện cổ Tày Nùng,

Hoàng Quyết sưu tầm và biên soạn,

Nxb. Văn hóa, H., 1986.