Skip to main content

Khám phá thế giới cổ tích Việt Nam qua các câu chuyện cổ tích sưu tầm! Những câu chuyện dân gian đầy ý nghĩa như sẽ đưa bạn về tuổi thơ cổ tích. Cùng tôi nhớ lại các truyền thuyết về lòng tốt, sự thông minh và bài học cuộc sống nhé!

Nghe đầy đủ playlist Truyện Cổ Tích Việt Nam Chọn Lọc: https://bit.ly/4itLLj9
Ai làm ra lửa? Ai Mua Hành Tôi? Bảy Chàng Trai Khỏe Mạnh https://youtu.be/LzOGiHypAf0

Ai Làm Ra Lửa

Ngày xưa, khi người Thượng chưa biết làm ra lửa, họ vẫn phải đi mua đãy. Mỗi lần mua mất một cái ché bằng vàng, bên ngoài sơn đủ màu sắc của các con vật trên rừng núi, tốn kém lắm. Một hôm, dân làng ngồi trong nhà dài (1) bỗng nghe gió đưa về tiếng chim kêu: “Ót ô! Ót ọ” và trong ngọn gió có những tia lửa lập lòe nhấp nháy. Dân làng rủ nhau đi tìm nơi sinh ra những tia lửa ấy. Họ đi vào rừng sâu, núi thẳm. Đi năm ngày, năm đêm thì gặp một con ruồi. Họ hỏi ruồi: – Ruồi ơi! Mày có thấy ai làm “Ót ô! Ót ọ!” Mà lại ra lửa không? – Tôi không biết đâu. Nhưng tôi sẽ đi tìm hộ dân làng. Nói rồi, ruồi bay đi. Ruồi bay đi mãi tới một cái hang thì thấy con chim dá ố (2) đang ngồi kéo gỗ làm lửa. Ruồi sợ dá ố trông thấy bèn nhóm mắt ở đằng khác để xem trộm, dá ố lấy cây da dàn (3) và một sợi lạt, phía dưới để lá khô, rồi cầm hai đầu kéo lên kéo xuống một lúc thì lửa bắn ra, rơi xuống lá khô, bén thành ngọn. Ruồi học được cách làm lửa thích chí quá, bay vù ra. Dá ố thấy động quay lại, biết ruồi xem trộm được cách làm lửa của mình, tức lắm. Vì ruồi sẽ vẽ bày cho dân làng, người ta sẽ không mua lửa của dá ố nữa.

Dá ố đuổi bắt ruồi, đuổi lên tận trời, đuổi tận xuống đất nhưng không bắt được. Ruồi bay về bày cho dân làng cách đánh lửa của chim dá ố. Để trả ơn ruồi, người ta cho nó được đốt trâu. Từ đó có loài ruồi trâu, và cũng từ đó người Thượng đánh được lửa, biết làm bếp để nấu nước và dùng củi đốt sưởi trong những ngày đông tháng giá. (Truyện cổ dân tộc Hơ-rê) Nguồn: Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, Phan Trọng Thưởng và Nguyễn Cừ biên soạn và tuyển chọn, Nxb. Giáo dục, H., 2001 *** (1) Nhà dài: Nơi hội họp của làng. (2) Dá ố: Một loài chim lông đỏ như lửa, kêu: Ót ô! Ót ọ. (3) Da dàn: Một loại cây thân xốp, cọ nóng lên thì ra lửa.

“Ai Mua Hành Tôi” Hay Là “Lọ Nước Thần”

Ngày xưa, có một anh chàng trẻ tuổi chưa có vợ, sống bằng nghề làm ruộng. Một ngày nọ anh xách búa lên rừng đốn củi. Trong khi đang lúi húi chặt cây, anh trông thấy một con quạ tha một con chim sẻ tới đậu trên một phiến đá ở gần chỗ mình đang làm đồng. Nhìn thấy thế, anh bỗng động lòng thương con chim sẻ bé bỏng đang sắp sửa lọt vào miệng loài ác điểu. Anh bèn nhặt hòn đá ném con quạ. Quạ giật mình bỏ mồi vỗ cánh bay lên. Tức mình vì hỏng ăn, quạ kêu quàng quạc om sòm. Anh nhặt đá ném thêm và mắng: “Đồ chim dữ! Hãy cút ngay!”. Quạ hậm hực bay đi, miệng còn đe dọa sẽ báo thù. Anh chàng chạy lại nhặt con chim sẻ đang thoi thóp, cố tìm cách ấp ủ cho nó sống lại. Quả nhiên, chỉ chừng giập bã trầu, con chim sẻ đã hồi tỉnh và bay được. Nó cảm ơn anh và bảo anh ngồi chờ để nó đưa biếu một vật. Một lát sau, con chim đã bay trở lại, miệng ngậm một cái lọ bé đặt xuống bên cạnh và nói: – Đây là lọ nước thần có phép làm cho người già thì trẻ lại, vật nhỏ thì lớn lên, trần gian không ai có. Nói rồi nó vỗ cánh bay đi. Anh ngồi tần ngần mở nút ra xem thì thấy đầy một lọ nước mùi thơm ngào ngạt. Anh nghĩ bụng: – Những thứ này chỉ để cho các bà quan làm đỏm, có đâu để hạng như ta dùng. Nói rồi anh nút lọ lại cẩn thận, khi gánh củi về, treo lọ lên kèo nhà. Và rồi thời gian trôi qua, vì bận công việc làm ăn, anh cũng quên đi, không nghĩ tới cái lọ ấy nữa.

Ít năm sau đó, chật vật mãi anh chàng mới cưới được vợ. Vợ anh cũng con nhà nông, quanh năm chân lấm tay bùn, nên đen đủi, xấu xí. Nhưng hai vợ chồng thì rất thương yêu nhau. Một hôm, chồng đi cày vắng, vợ ở nhà quét dọn khắp nơi. Thấy một cái lọ con con treo trên kèo nhà, chị bèn bắc ghế lấy xuống mở nút ra xem. Khi ngửi thấy mùi thơm, chị ta đồ là dầu thơm gội đầu. Lát sau, chị nấu nước tắm rồi tiện tay đổ lọ nước ra bôi khắp tóc tai mình mẩy. Không ngờ sau khi bôi xong chị ta tự nhiên trở nên xinh đẹp trắng trẻo, nhan sắc mĩ miều ít ai sánh kịp. Nước thần trôi xuống mấy luống hành bên cạnh giếng, khiến cho những cây hành cũng tự nhiên lớn phổng lên một cách lạ thường: Củ to như bình vôi, dọc dài bằng đòn gánh. Khi người chồng đi cày về nhìn mặt vợ thì ngẩn cả người cứ tưởng là tiên sa xuống cõi trần, nếu không có tiếng nói thì cơ hồ anh không nhận ra vợ mình. Nghe vợ nhắc đến lọ nước thơm, anh mới sực nhớ tới chuyện báo đền của con chim sẻ ba năm về trước. Nỗi mừng biết lấy chi cân, anh ngắm vợ mãi không chán mắt, rồi kể lại câu chuyện cũ cho vợ nghe. Từ đấy, anh cứ quấn quýt bên vợ không rời. Công việc đồng áng vì thế cũng mười phần bê trễ. Nhưng cứ ở nhà mãi thì đói mất nên anh đành phải đi làm. Để khỏi nhớ vợ, anh thuê thợ vẽ hình vợ. Mỗi khi ra đồng làm việc, anh lại treo bức tranh ở bờ ruộng để nhìn cho thỏa. Một hôm, anh đang cày ruộng, bức tranh được treo lên một cái cọc cắm ở trên bờ. Vừa cày được mươi luống, tự nhiên con quạ năm xưa ở đâu sà xuống quắp lấy bức tranh mang đi. Anh chàng ở bên bờ kia thấy vậy, bèn hò hét đuổi theo nhưng không kịp nữa. Quạ đã cất cánh bay cao và bay đi rất xa, chỉ một loáng đã mất hút. Báo thù việc anh ném đá giành mồi của nó khi xưa, quạ mang bức tranh vào đến tận Kinh đô, thả xuống sân rồng. Bọn lính thị vệ thấy sự lạ lùng, bèn nhặt lên đem trình vua. Cầm bức truyền thần, vua ngắm nghía mãi không chán mắt, bụng bảo dạ: “Trong ba cung sáu viện của ta đã có nhiều người đẹp, nhưng chưa có người nào đẹp bằng người đàn bà trong tranh này. Hẳn là trời sai con quạ đến mách cho ta đây!”. Lập tức vua ra lệnh cho một quan đại thần và một trăm thị vệ phải tìm cho được người đàn bà như đã vẽ trong tranh mang về. Quan đại thần cho người về các địa phương sục sạo khắp hang cùng ngõ hẻm. Để việc tìm tòi có hiệu quả, chúng bày ra trò mở hội ở các vùng chúng đến để cho mọi người đổ về xem. Mỗi lần thấy dân tập hợp đông đúc, chúng đưa bức tranh ra giả tảng nói là tình cờ bắt được, người nào mất thì đến mà nhận. Một hôm, chúng tới vùng quê hai vợ chồng anh chàng có lọ nước thần và cũng bày trò mở hội ba đêm ngày. Quả nhiên anh chàng sa vào mưu gian. Khi nhìn thấy bức tranh anh không đắn đo gì cả, lật đật bước tới để nhận. Nhưng anh không ngờ bọn lính chộp lấy anh như chộp con mồi. Chúng theo anh về nhà vàtìm thấy ngay người đàn bà trong tranh. Mừng quá chúng vội đưa kiệu rước người vợ về Kinh đô, mặc cho người chồng vật mình than khóc. Sau khi bị bắt vào cung, người đàn bà không cười không nói, áo đẹp không mặc, đầu không chải và không cho một ai đến gần. Đem được người đẹp về cung, nhà vua hết sức mừng rỡ, nhưng cũng hết sức buồn phiền vì mọi thứ dỗ dành, dọa nạt đều không thể làm cho người ngọc nở một nụ cười. Vua bèn hạ lệnh cho thông báo trong dân chúng, hễ ai có cách gì làm cho nàng cười nói lên được, thì sẽ ban thưởng cho quan cao lộc hậu. Nghe tin này, có nhiều người, từ những vai hề nổi tiếng, những ông trạng cười cho đến các bậc lương y, các pháp sư phù thủy v.v… đua nhau trẩy Kinh hy vọng dùng tài phép làm cho người đàn bà phải buột miệng nói cười để mong ân thưởng. Nhưng dù đã giở mọi trò, đều vô hiệu. Lại nói chuyện anh chồng từ khi vợ bị quan quân bắt đi thì không còn thiết làm ăn gì nữa. Khi nghe tin loan báo ai làm cho người đẹp trong cung nói cười được thì vua sẽ ban thưởng, anh biết là vợ mình đang ở cung vua, bèn quyết vào Kinh tìm vợ. Trước khi đi, anh nhổ mấy củ hành ở cạnh giếng buộc làm một gánh, quảy theo. Đến Kinh đô, anh quảy gánh của mình đi lại trước hoàng cung rao to lên những câu: Dọc bằng đòn gánh Củ bằng bình vôi Ai mua hành tôi Thì thương tôi với! Tiếng rao của anh vọng vào cung mỗi lúc một to. Nét mặt của vợ anh cũng mỗi lúc một tươi. Cuối cùng, nàng quay lại bảo thị nữ: – Hãy gọi người bán hàng vào cho ta! Khi nhìn thấy mặt chồng, vợ anh cười lên một tiếng. Thấy người đàn bà lần đầu tiên cười nói, vua sung sướng như mở cờ trong bụng; lại thấy những cây hành to lớn lạ thường thì lấy làm kinh ngạc. Vua ngỡ là nhờ những cây hành kỳ lạ này mà người đẹp nói cười. Vua liền nảy ra ý nghĩ muốn tự mình cải trang thành người bán hành để làm vui lòng người đẹp. Vua bảo anh chồng: – Hãy đặt gánh hành lại đó và cởi áo ra mau! Vua cởi áo long bào vứt cho anh và mặc áo của anh. Vua còn bắt anh bày cho mình học thuộc câu rao, rồi quảy gánh qua lại trước mặt người đàn bà, cất tiếng rao mới học được. Thấy vậy, vợ anh hàng hành cười ngặt nghẽo. Vua thích thú lại càng làm già. Nhưng đột nhiên người đàn bà bảo thị nữ thả đàn chó ra. Chó thấy vua ngỡ là người lạ liền nhảy xổ tới cắn chết. Người đàn bà vội bảo chồng: – Mình hãy mau mau ngồi lên ngai vàng đi! Anh chồng lật đật trèo lên ngai vàng giữa lúc trăm quan và cung nữ dập đầu bái lạy. Từ đó anh làm vua và sống hạnh phúc trọn đời bên vợ. Nguồn: Hợp tuyển Truyện cổ tích Việt Nam, Lữ Huy Nguyên – Đặng Văn Lung sưu tầm và biên soạn, Nxb. Giáo dục, H., 1996.

Bảy Chàng Trai Khỏe Mạnh

Ngày xửa ngày xưa, có nhà kia giàu của nhưng rất hiếm con. Hai người cầu trời khấn Phật mấy mươi năm mới sinh được một đứa con. Em bé mới lọt lòng mẹ, răng đã mọc đủ hai hàm, chẳng cần bú sữa và ăn mỗi bữa hết một nồi ba cơm. Đầy một tuổi em đã cao lớn, khỏe mạnh chẳng ai bằng và mỗi bữa ăn đến mấy thùng cơm mới no bụng. Cha mẹ em nghi con là yêu quái, bàn nhau tìm cách bỏ em vào rừng. Hôm đó, người cha đưa con vào rừng, vác theo một cái thuổng. Thấy có một tảng đá to, đứng chênh vênh, người cha bảo con: – Con vác hòn đá này về lót cho mẹ rửa chân! Em bé ghé lưng vào hòn đá. Người cha lấy thuổng bẩy. Hòn đá đè em bé xuống đất. Người cha cứ lững thững vác thuổng về. Còn đứa con tưởng mẹ cần hòn đá thật nên cặm cụi vác về sau. Đến chiều, vợ chồng đang ngồi bên mâm cơm trò chuyện thì em bé vác hòn đá về, ném bên giếng nước, rồi vào trách cha: – Hòn đá nặng thế mà cha không giúp con một tay. Nó đè lún con xuống đất, con phải moi mãi mới vác về được. Bố mẹ kinh ngạc, ăn chẳng được, bỏ dở bữa cơm. Nhưng tối hôm đó, hai người lại bàn kế khác. Sáng ngày, người cha lại vác một cái rìu đưa con vào rừng. Trông thấy một cây gỗ to hai người ôm không xuể, người cha ra sức chặt từ sáng đến nửa buổi chiều. Lúc cây gỗ sắp ngã, người cha bảo con:

– Con ghé lưng vào đây, vác cây gỗ này về, để cha cưa ra làm mấy bộ ván. Em bé ghé lưng vào. Cây gỗ ngã uỳnh xuống, em bé bị lấp mất trong đống tán lá um tùm. Người cha vội vàng vác rìu chạy một mạch về nhà, người vợ đã ngồi chờ bên mâm cơm. Ăn chưa xong bữa cơm, đã nghe em bé đứng ngoài ngõ gọi:
– Mở cửa cho con. Sao cha về mà không bảo, để con cứ chờ mãi.
Cha mẹ em sợ hãi. Vợ trách chồng, chồng gắt vợ đổ lỗi cho nhau. Em bé đứng ngoài cửa nghe, mới biết mình bị cha mẹ lừa vì họ tưởng mình là yêu quái. Em tự bảo nếu cứ ở nhà sẽ xảy ra những điều không lành nên lẳng lặng vứt cây gỗ trước cửa rồi bỏ đi.
Làng trên xóm dưới chẳng ai quen thuộc, lang thang dọc đường một lúc, em bé nhằm cánh đồng trước mặt đi thẳng tới. Lúc đó đang hạn hán, đã đến mùa cày mà trời không mưa. Mọi người phải ra sông đắp đập, đưa nước vào đồng. Em bé đến đây, thấy trong đám đông có hai người khỏe lạ thường. Một người đứng bẻ gỗ để làm cọc. Người thứ hai đang đóng cọc. Anh này có cái nắm tay rất rắn và khỏe bằng hàng trăm chiếc vồ. Những cây gỗ của anh kia bẻ vừa ném sang anh nhặt cắm xuống đất, đưa nắm tay ra làm vồ đóng. Anh đóng một nhát, cây gỗ lún xuống đến vài gang tay. Em bé muốn làm quen với hai anh này nhưng chưa biết bằng cách nào, thì lại có một người xăm xăm bước tới chỗ đập nước. Hai bàn tay anh to như hai chiếc xẻng. Thấy anh kia lấy tay làm vồ đóng cọc, anh muốn thử sức, liền lặn xuống nước, lần đến, đưa bàn tay chắn ngang cây gỗ anh kia đang đập. Cây gỗ đang lún xuống đất, bỗng dừng hẳn lại. Anh có nắm tay khỏe ra sức giáng liền mấy mươi đấm một lúc, thanh gỗ vẫn không chuyển được chút nào. Anh này tức mình, lặn xuống nước, sờ lần theo cây cọc, nắm được bàn tay, lôi anh kia lên, làm dữ:
– Tao phải đóng xong cái kè này, mới được làng cho ăn một bữa cơm, thế mà mày phá tao, tao phải đánh mày. Anh bẻ gỗ cũng chạy lại bênh anh đóng cọc: – Tao phải bẻ năm xe gỗ, mới được trả một nồi ba gạo công, mà mày ngăn lại, không cho nó đóng, thì ai còn thuê tao bẻ gỗ nữa? Ba người gầm ghè nhau, người toan vác gỗ đâm, người đưa nắm tay ra đấm, anh có bàn tay to, định dùng bàn tay mình làm cái xẻng, xúc hai anh kia đổ đi chỗ khác. Em bé chạy lại can. Đang cơn nóng nảy, anh bẻ gỗ và anh đóng cọc muốn đánh cả em. Em bé chạy vào giữa ba người nói: – Tôi nhỏ, các anh lớn… các anh đánh, tôi thua thôi. Nhưng hãy nghe tôi hỏi đã. Hai anh đã nói phải đi bẻ gỗ, đóng cọc thuê kiếm ăn. Tôi thì có cha mẹ, nhưng cha mẹ tôi sợ tôi là yêu quái, ăn hết của, nên đem bỏ tôi. Vậy chúng ta cùng cảnh nghèo sao không thương nhau còn đánh nhau? Còn anh có bàn tay to như cái xẻng, tại sao không cho anh này đóng cọc? Anh có bàn tay to gắt gỏng: – Hai bàn tay tao khỏe bằng hàng trăm chiếc xẻng. Tao vỡ không biết bao nhiêu ruộng nhưng vỡ được bao nhiêu bọn nhà giàu tranh hết bấy nhiêu! Tao vỡ chỗ nào, chúng bảo chỗ ấy là đất của chúng. Tức quá, tao phá cái đập này, cho ruộng chúng nó bị khô! Nghe anh này nói, hai anh kia hết giận, em bé lại bảo: – Chúng ta đều thiếu ruộng, thiếu cơm, bị người khác hà hiếp, vậy đừng giận nhau nữa, hãy kết bạn đi kiếm nơi làm ăn. Ba người đều khen em bé nói phải, bằng lòng kết làm anh em. Họ đặt lại tên nhau cho dễ gọi, và thi tài để chọn người đứng đầu. Em bé kia ngồi xuống, cho các anh chất lên vai mười tảng đá bằng cái máng lợn. Em đứng thẳng dậy, chạy mười vòng xung quanh một đám ruộng to. Mấy anh kia bảo em khỏe nhất, lại có lời nói khôn, đáng làm người đứng đầu. Anh bẻ gỗ được xếp thứ hai, anh đóng cọc thứ ba, anh có bàn tay xẻng thứ tư. Bốn người từ giã đồng bằng, theo dòng sông đi ngược lên nguồn, kiếm đất làm ăn. Đi nửa ngày thấy có nước sông vọt lên ruộng ầm ầm, cột nước to bằng năm, bảy người tát một lúc. Bốn người không biết chuyện gì, liền đến xem. Thấy giữa sông có một người đang khom lưng, há mồm hút nước phun lên những đám ruộng lúa đang khô nẻ. Vác đá đến gần hỏi: – Ruộng hai bên bờ sông này đều là của anh chăng? Đến mùa gặt, chắc nhà anh thừa nhiều thóc? – Tao phải phun cho đầy nước vào hai thửa ruộng này, mới được chủ ruộng trả cho một thúng cơm. Thúng cơm đang để kia. Anh hút nước lại hỏi bốn người: – Chứ chúng mày lấy đâu ra cơm ăn, mà đi chơi thong thả rảnh rang vậy? Bốn người kia nói lại cảnh khổ và ý định của mình. Anh hút nước nhảy vọt lên bờ: – Thế thì chúng mày phải cho tao theo. Tao cũng khổ như chúng mày! Anh hút nước nhập bọn. Đến chiều, năm người rẽ vào rừng ngồi dưới gốc cây nghỉ chân. Lại thấy một người đến chỗ có hai cây gỗ to đứng gần nhau kề hai vai vào hai cây nhổ bật gốc lên, vác cả cây lẫn cành ra về. Năm người kia nhìn theo, ai cũng tặc lưỡi. Vác đá đứng dậy, ướm hỏi:
– Vội gì mà anh không chặt bỏ cành, bỏ gốc vác cho nhẹ?
Nghe tiếng người nói, anh nhổ cây quay lại để nguyên hai cây gỗ trên vai, nói:
– Hai cây gỗ chỉ đổi được có nửa thúng thóc, thì chặt gốc chặt ngọn làm gì cho mệt?
Vác đá nói:
– Anh bị lừa rồi. Vác cả gốc, cả ngọn thì nặng vai anh, mà người đổi được lấy cành làm củi đun.
– Mày còn bé mà đã khôn hơn tao. Không gặp mày tao chưa biết tao bị lừa.
– Chúng tôi cũng nghèo, cũng bị lừa như anh, bây giờ rủ nhau đi làm. Anh có đi thì đi cùng.
– Tại sao tao lại không đi. Chúng mày đã cho tao biết tao bị lừa, chắc chúng mày không lừa tao. Chúng mày đi đến đâu, tao cũng theo.
Sáu người lại dắt nhau đi. Tối hôm sau, cả sáu người cùng bẻ lá lót dưới gốc cây, nằm ngủ trong rừng. Sáng ngày đã thấy một người vác một bó lao đuổi theo đàn nai. Đàn nai hơn mười con đều bị anh đuổi theo, phóng lao giết chết hết. Sáu người cùng chạy ra xem. Vác đá cất tiếng hỏi:
– Mỗi lần được bằng ấy nai, chắc nhà anh giàu lắm?
– Voi tao phóng còn chết nữa là nai. Nhưng tao có ăn thịt trừ cơm được đâu mà giàu! Một con nai chúng chỉ đổi cho tao một thúng thóc. Một con voi có ngà, cũng chỉ đổi được có một cái áo rách. Mà voi, nai đâu có phải ngày
nào cũng tìm được! Cái thằng chủ rừng ấy ác lắm! Tao săn được bao nhiêu nó cũng bắt phải đổi rẻ cho nó. Vác đá kể cảnh nghèo cho anh chạy giỏi nghe. Bẻ gỗ cũng nói: – Tao giống như mày đấy, ngày nào tao cũng nhổ bốn cây gỗ, mà đổi chẳng đủ gạo ăn, tao mới gặp chúng nó hôm qua. Chúng nó cũng là người nghèo mà khôn. Tao ngủ chung với chúng nó một đêm rồi, tao biết, chúng nó tốt lắm. Mày nên nhập bọn đi làm ăn với chúng tao. Anh kia chẳng chút lưỡng lự, xin nhập bọn luôn. Thế là trong bọn đã có bảy người. Bảy anh em bẻ nứa kéo lửa nướng thịt nai ăn no nê rồi đi về phía mặt trời lặn. Trên dãy núi kia có một vùng đất rộng, bằng phẳng như mặt nước trong hồ. Chỗ này trước kia có xóm làng đông đúc. Những con yêu tinh trong núi hay ra bắt người, bắt cả trâu bò, heo, dê. Nó lại có phép tự hóa to ra, hoặc thu nhỏ mình lại. Tiếng nó gầm to như sấm rền. Bắt được đàn ông, đàn bà thì nó ăn thịt, con gái đẹp thì nó để làm vợ. Dân làng khiếp sợ con yêu tinh này bỏ đi tản mác mỗi người một nơi. Bảy chàng trai khỏe vào đây thấy nhà cửa xác xơ, nồi chậu lăn bừa bãi. Bảy anh đi chặt cây, cắt lá gianh làm nhà ở, rồi ra công trồng tỉa. Đất mới nhà thưa, chẳng ai tranh giành lừa lọc. Lúa của họ xanh mát mắt, bầu bí bỏ ngọn um tùm. Người làng đi về trông thấy có các anh, đều lần lượt trở về làm nhà ở gần, dựa sức nhau làm ăn. Con yêu tinh thấy làng cũ đông người, lại lần đến. Nó biến thành một con vật hình thù kỳ quái, ba đầu sáu tay, mười hai mắt, thân xám như tro, to như đống rơm, tiếng thét vang như sấm. Dân làng sợ hãi, chạy ùa vào nhà bảy anh. Con yêu tinh tưởng như mọi ngày, ùa theo đuổi bắt. Bảy anh khỏe tản ra sân. Con yêu tinh bổ vào, bị anh đóng cọc thụi cho một thụi vào đầu. Bị đánh một cái mạnh bằng hàng trăm chiếc búa bổ, con yêu tinh thụt ngay cái đầu đau vào thân, né sang bên kia. Anh bẻ gỗ vớ tay nó, bẻ liền. Tay con yêu tinh gãy lủng lẳng. Anh vác đá lại vác một tảng đá to như cái giường ném mạnh vào giữa lưng nó. Nó rùng mình, hóa cánh bay lên. Anh chạy giỏi đã rút được cái đòn tay nhà, làm lao phóng theo. Cái lao đâm trúng giữa mồm con yêu quái. Nó rú lên một tiếng rồi bay vụt vào núi. Bị một trận đòn đau, con yêu quái thù bảy chàng trai trẻ nhưng không dám đến làng. Nó bèn bay trên cao, hóa lửa phun xuống đốt nhà. Lửa bốc lên cao, khói mù mịt, cháy lan từ nhà này sang nhà khác, sang cả núi rừng. Anh hút nước phải ra sông hút nước tưới. Anh tay xẻng dùng hai bàn tay xúc đất đổ vào. Anh bẻ gỗ nhổ từng bụi cây dập lửa trên những ngôi nhà bị cháy dở. Con yêu quái lại hóa lửa đốt phá mùa màng. Bảy chàng khỏe tức lắm, rủ nhau đi tìm chỗ nó ở. Bảy người tìm khắp núi rừng, không gặp con yêu tinh nhưng thấy lối nó đi. Bảy chàng bứt dây rừng bện lại to bằng cây cột giăng ngang đường. Ba người giữ một đầu dây, còn một người đứng làm hiệu. Trăng lên, con yêu tinh từ trong động đi ra. Bị vướng dây nó ngã sấp. Nhưng bảy người vừa chạy lại, nó đã bới đất chui xuống. Anh tay xẻng liền dùng hai tay bới theo. Bàn tay xén một nhát ước đến mười gánh đất. Con yêu tinh cũng khỏe, anh kia càng xén, nó càng chui sâu. Anh hút nước liền đi hút nước đổ vào đó. Nhưng sông ở xa, nước chưa đủ làm cho con yêu tinh ngạt đã thấm hết vào đất. Anh chạy giỏi, chạy nhanh như gió cõng anh hút nước đi cho nhanh nên chỉ một buổi, nước đã ngập đầy lỗ, con yêu tinh quay đầu nhoi ngược lên. Bảy anh khỏe xúm lại đánh, nhiều người, lộn xộn quá, con yêu tinh thoát ra được. Anh bẻ gỗ chỉ kịp bẻ một cây gỗ phang nó què một chân.
Bị què một chân mà con yêu tinh chạy còn nhanh hơn con hươu rừng. Xong anh chạy giỏi vẫn đuổi theo sát gót nên nó chẳng kịp hóa cánh, cứ lê cái chân què chạy về động. Động con yêu tinh rất nhiều hang, lại lắm ngóc ngách. Anh chạy giỏi theo đến cửa, nó đã chui vào trong. Không biết nó chui ngách nào. Chạy giỏi lấp cửa hang rồi trở về gọi thêm sáu người bạn. Bảy anh chàng khỏe vào phá động. Cái động cao như núi, hang hố ngoằn ngoèo, bị bảy chàng trai bới tung. Mùi trong hang bay ra tanh hôi khó chịu. Vào hang, bảy chàng trai thấy có
nhiều người ngồi ủ rũ xanh xao. Bảy chàng khỏe vừa đưa những người kia ra một đoạn, lại nghe có tiếng khóc ở ngách bên mà không thấy đường vào. Họ phải dùng sức vần những tảng đá sang bên. Bên trong tảng đá có một cái hang rộng. Hai mươi mốt cô gái ngồi trong khóc than. Con yêu tinh đã chọn những người con gái đẹp này nhốt riêng. Mỗi khi ra ngoài, nó lấy đá lấp kín cửa lại. Cứu được người mà chẳng thấy con yêu tinh. Bảy chàng trai tìm mãi mới thấy nó chui vào kẽ đá. Kẽ đá rất chặt. Con yêu tinh rúc mãi vào trong, tay bấu vách đá như con kỳ đà, mồm rúc vào túi phép đeo trước ngực. Túi phép đó đã hết thiêng từ lúc bị vấp dây ngã sấp xuống đất nên nó hóa mãi mà chẳng được gì. Nhưng sức nó còn khỏe lắm. Bảy chàng đã nắm được chân nó mà không lôi ra được, nên mỗi người lại phải trổ tài riêng. Cuối cùng, con yêu tinh nằm trơ ra. Bảy chàng nổi lửa đốt xác nó, rồi đưa những người được cứu sống trở lại làng. Con yêu tinh bị giết, chẳng bao lâu những người trốn tránh xa gần đều trở về nhà cũ. Cái làng hoang vắng xưa kia nay lại đông đúc yên vui. Lúa lại xanh đồng, khoai tươi tốt, trâu dê đầy chuồng. Nhớ ơn cứu sống, hai mươi mốt cô gái đẹp lấy bảy chàng trai khỏe làm chồng. Bảy người sinh con đẻ cháu chật nhà mà không bị lừa lọc đói khổ như xưa. (Truyện cổ dân tộc Chăm) Phạm Xuân Thông và Quảng Đại Cường sưu tầm, biên soạn. Nguồn: Truyện cổ tích Việt Nam hay nhất, tập 2,
Nguyễn Cừ tuyển chọn, Nxb. Văn học, H., 2002.