Skip to main content

Chuyện xảy ra đúng vào mùa thu hoạch. Trời hãy còn tờ mờ sáng, trong ánh sáng yếu ớt của ban mai thoang thoảng mùi hương cỏ cây và mùi nhựa thông, phía đông đầu thôn, một nông phu cường tráng ra đồng cắt lúa. Trong tiếng soàn soạt của chiếc liềm, từng hàng từng hàng lúa ngã rạp ngay ngắn trên mặt bùn.

Chăm chú làm việc, nhưng lòng chàng lại cảm thấy bất ổn, nên chốc chốc lại ngừng tay liềm, ngẩng nhìn về thôn trang. “Cù – cú”, tiếng cú kêu như báo trước có điềm chẳng lành xảy ra.

Năm Bắc Tống khánh lịch, vùng đất Trung Châu là nơi vừa phồn thịnh lại hỗn loạn, bọn người tranh loạn phát tài mọc lên như nấm, khiến thiên hạ mất đi cảnh an vui thái bình.

Chú thích: Khánh lịch: Niên hiệu vua Nhân Tông, thời Tống Trung Quốc (1041-1048)

Thôn này tên gọi Bảo Thạch, cách huyện thành Khải Khánh 30 dặm, là một bồng lai tiên cảnh ngoài thế sự loạn lạc. Do đất đai màu mỡ phì nhiêu, nguồn nước sung túc, bóng cây râm mát, thoạt nhìn đã tạo cho ta cảm giác đây là nơi tốt nhất để trăm họ an cư lạc nghiệp. Bảo Thạch thôn có nhiều đồng lúa rộng lớn, sinh sản ra giống gạo thơm nổi tiếng khắp xa gần, ngay cả Tống Hoàng đế cũng biết tiếng.

Thế nhưng, người đời vốn sự nổi tiếng là giàu có, bởi càng giàu có thì bọn đạo chích càng để ý đến.

Chàng nông phu cuối cùng đành phải dừng tay, một phần có thể là vì ra đồng sớm nên bụng đói, một phần vì lòng chàng thấp thỏm không yên nên đành phải quay về nhà. Chàng là một phú nông, tên gọi Vương Thế Bân, cả nhà từ đời này qua đời khác bám ruộng lúa, cha truyền con nối vì thế mà giàu có. Phụ thân chàng là Vương Thiện Nhân, tuổi đã cao không thể lo liệu việc đồng áng, nên toàn bộ công việc đều giao cho con trai. Chàng nổi tiếng khắp thôn về tính cần cù, một tay lo liệu trong ngoài. Tuy mướn người làm, nhưng chàng không để họ ra đồng sớm, mà muốn chính mình là người đầu tiên đổ mồ hôi trên cánh đồng yêu quý.

Vợ của Vương Thế Bân là Quỳnh Nương, con gái nhà họ Trần trong huyện thành, tính nết dịu dàng, dáng người đẹp đẽ, từ khi gả về nhà họ Vương, sớm hôm lo phụng sự cha mẹ chồng, nhất mực hiếu thuận, ngoại trừ cách đây vài năm có xảy ra một nhầm lẫn nhỏ, mọi người trong nhà đều sống hết sức thân mật, thương yêu nhau.

Còn cách nhà không xa mấy, Vương Thế Bân đã vội lên tiếng gọi: “Nương tử! Nương tử!”

Đáp lời chàng chỉ là tiếng gà vịt kêu. Chàng đẩy cửa bước vào phòng, mền gối đã được xếp gọn gàng ngăn nắp, nhưng Quỳnh Nương thì không có ở đó. Chàng chạy vội vào bếp, hy vọng vợ mình đang chuẩn bị bữa sáng, nhưng vẫn không thấy.

“Nương tử! Nương tử!” Vương Thế Bân lo lắng kêu to, cảm giác bất ổn càng lúc càng vây chặt lấy chàng.

Lúc bấy giờ trời đã sáng tỏ, người làm đều đã dậy, đang rửa mặt ngoài giếng, nghe thấy chủ nhân tìm vợ, bọn họ đều vây lấy chủ nhân để hỏi xem đã xảy ra chuyện gì?

“Các ngươi có nhìn thấy phu nhân ta đâu không?” Mọi người đều lắc đầu đáp: “Không thấy, không thấy, chúng tôi thức dậy đã không thấy phu nhân. Mà lạ thật! Bình thường phu nhân luôn dậy sớm hơn chúng tôi, chuẩn bị cơm nước sẵn sàng, hôm nay vẫn ngỡ phu nhân chưa dậy!”

Đúng lúc mọi người đang bàn luận xôn xao, Vương Thế Bân bỗng nhìn thấy bóng người lảo đảo đi trên con đường nhỏ trước cổng. Khắp người đầy máu, đến ngạch cửa, người đó như không còn sức chịu đựng: “Ầm!” Y đổ nhào xuống đất.

Vương Thế Bân chạy bổ về phía trước, chàng nhận ra đây chính là Tiến An, tên gia đồng của nhà Quỳnh Nương vừa đến hôm qua. Phụ thân của nàng bệnh nặng nên sai Tiến An đi mời nàng về chăm sóc: “Tiến An! Tiến An! Ngươi sao vậy?” Vương Thế Bân đỡ y lên, lay nhẹ đầu hỏi.

“Chủ nhân! Chủ nhân, phu nhân…” Tiến An kinh hoàng đáp.

“Quỳnh Nương ở đâu, nàng làm sao? Ngươi nói mau!” Vương Thế Bân trợn trừng mắt nhìn y.

“Phu nhân, phu nhân bị người ta giết chết rồi!” Tiến An đưa bàn tay đầy máu che mặt bật khóc.

“Sao?” Vương Thế Bân như sét đánh ngang mày, ngã ra bất tỉnh.

Mọi người vội đặt chủ nhân lên giường, vấy nước cho chàng tỉnh dậy.

Vương Thế Bân tỉnh lại, rất lâu vẫn không nói được lời nào, một lúc sau, mới cất giọng khàn đặc lẩm bẩm: “Không nghe lời ta, sao không nghe lời ta!”

Một người tỉnh táo nói: “Thưa chủ nhân, hay là mau đi tìm thi thể của phu nhân về?”

Vương Thế Bân bấy giờ như tỉnh cơn mê, gật đầu vội nhảy ra khỏi giường, lấy trúc cột lại thành bó, dẫn theo một người làm, cùng với Tiến An đi tìm Quỳnh Nương.

Tiến An lảo đảo chạy vội về phía rừng Hắc Phong.

Đây là khu rừng tự nhiên nằm trên đường nối giữa Bảo Thạch thôn và huyện thành, trong rừng đồi núi nhấp nhô, thông xanh dày đặc, địa hình cực kỳ phức tạp, dã thú thoắt ẩn thoắt hiện khiến khu rừng vốn âm u càng tăng thêm phần nguy hiểm. Ngoài ra mấy năm gần đây, nơi này thường có đạo tặc hoành hành cướp phá khách bộ hành, nên sự sợ hãi của dân chúng đối với khu rừng càng lúc càng tăng.

Trên một đám cỏ bị quần nát, Vương Thế Bân lờ mờ nhìn thấy thi thể bầm nát lẫn lộn thịt và máu của vợ mình. Vai trái của nàng bị chém đứt chỉ còn dính lại sợi gân trắng, tay phải đã rớt lìa nằm bên cạnh, bu quanh là đàn kiến, thân dính đầy máu, khuôn mặt càng thương tâm hơn, bị vô số những nhát chém, hầu như không còn hình dạng…

“Nương tử! Nương tử!” Vương Thế Bân quỳ xuống bên cạnh thi thể Quỳnh Nương khóc nức nở.

Một lúc sau, chàng mới từ từ bình tĩnh, một mặt lo kêu người đào huyệt mộ, mặt khác cởi lấy chiếc áo đầy máu của vợ mình, quyết tâm đến nha huyện kêu oan.

Trước cửa nha huyện, bên phải có treo một cái trống to, Vương Thế Bân vội cầm lấy dùi trống đánh ba tiếng.

Quì ở công đường, chàng ngẩng nhìn lên. Kỳ lạ thay! Vị đại quan ngồi trước Điêu Hoa án không phải là quan huyện lệnh, mà là vị lão gia mặt đen, thân hình to lớn, ông đưa đôi mắt đầy uy lực nhưng không hung ác nhìn chàng. Ô! Sao mà quen thuộc đến thế? Vương Thế Bân nghĩ. Chàng sực nhớ ra, suýt chút nữa thì bật kêu lên: “Đây có phải là Thanh Thiên đại lão gia Bao Công?”

Đúng vậy, Đại Tống Thiên Chương Các đặc chế, Long Đồ Các học sĩ, Bao Chưởng phủ doãn phủ Khai Phong, tuần sát đến huyện Khải Khánh, nghe báo có vụ án giết người nên đã thân hành đứng ra điều tra.

Vương Thế Bân tạ ơn trời đất, có Bao đại nhân đứng ra xét xử thì nỗi oan của Quỳnh Nương nhất định sẽ được điều tra ra! Hung thủ nhất định trốn không thoát.

Bao Công như đọc được ý nghĩ của chàng bèn hỏi:

“Vương Thế Bân, phu nhân của người hà cớ gì mà phải rời nhà để đi qua rừng Hắc Phong? Ngươi hãy thành thật khai rõ.”

“Vâng, thưa đại nhân.” Vương Thế Bân bắt đầu kể lại:

Hôm qua, lúc chập choạng tối thì Tiến An, tên gia đồng của nhà Trần đại nhân vội vội vàng vàng đến, báo cho Quỳnh Nương hay lão quan mấy ngày nay bị cảm phong hàn, muốn con gái về lo thuốc thang, săn sóc cha già cho đỡ nỗi nhớ thương.

Quỳnh Nương nghe nói cha bị nhuốm bệnh, trong lòng không yên, hận mình không có đôi cánh để bay về báo hiếu. Nhưng, muốn đi thì phải bàn bạc cùng chồng, đợi chàng đồng ý mới được. Lúc bấy giờ Vương Thế Bân vẫn chưa về, không thể quyết định ngay, nên nàng bảo Tiến An hãy ăn cơm trước, đợi chàng về.

Vì như thế:

Tối đến, Vương Thế Bân mình lấm đầy bùn đất từ ruộng về, vẫn vẻ mệt mỏi như thường ngày. Quỳnh Nương vội bưng chậu nước nóng đến cho chồng rửa mặt, nàng không thể nhịn được, vội báo: “Tiến An vừa đến, báo tin cha thiếp bệnh rất nặng, muốn thiếp về nhà, nếu như chàng đồng ý thì thưa chuyện cùng cha mẹ để sáng sớm mai thiếp và Tiến An lên đường.”

Vương Thế Bân chưa được biết trước, nên cảm thấy rất ngỡ ngàng, vội hỏi Tiến An hiện ở đâu?

Nàng bèn gọi Tiến An vào gặp chàng. Vương Thế Bân hỏi cặn kẽ về bệnh tình của nhạc phụ, trong lòng hơi yên tâm vì bệnh tình không nghiêm trọng như Quỳnh Nương nói. Chàng không muốn nàng đi, nên khuyên:

“Hiện nay đang là lúc thu hoạch, mọi người đều bận rộn, nàng sao nỡ bỏ đi? Ráng đợi thêm vài ngày nữa, công việc thư thả một chút sẽ về thăm cha, nàng thấy thế nào?”

Quỳnh Nương nghe xong, mặt sa sầm xuống: “Cha thiếp bệnh nặng nằm trên giường, cái chết gần kề, thì làm sao có thể chờ đợi được?”

Nhưng, chàng vẫn cương quyết không để nàng đi, Quỳnh Nương tìm mọi cách vẫn không thuyết phục chàng. Vương Thế Bân lúc này thật sự quá mệt mỏi, nhất định không nghe, đi thẳng vào bếp.

Quỳnh Nương rầu rầu không vui, bỏ luôn cả cơm chiều. Đêm xuống, Vương Thế Bân vội tắt đèn, quàng tay qua kéo áo vợ ra chiều thúc giục. Là người lo việc đồng áng, ban ngày tuy cực khổ, nhưng tối đến lại không quên việc vợ chồng. Vương Thế Bân sau khi đã vui vẻ thì lăn ra ngủ say như chết. Thế nhưng, Quỳnh Nương lại không ngủ được, trăn trở không yên.

Nàng thầm nghĩ, chồng mình tuy làm việc mệt nhọc như vậy, tối đến vẫn không quên mình, nhưng cha ta bệnh nặng, sao ta lại không trở về báo hiếu được? Nàng thầm nhớ: Cha chỉ có mình ta, không có con trai để nương tựa, mẹ thì đã già, ngộ nhỡ có việc gì xấu xảy ra, sau này hối hận sẽ không còn kịp nữa, chỉ còn cách trốn đi cùng Tiến An, đợi đến khi bị phát hiện thì ta đã ở nhà cha mẹ ruột, lúc ấy chàng sẽ không lo lắng nữa. Ta ở lại nhà chăm sóc cha già vài ngày, đợi bệnh thuyên giảm sẽ quay về, chắc chẳng xảy ra việc gì.

Sáng sớm hôm sau, Vương Thế Bân thức dậy ra đồng lúc mặt trời chưa mọc. Quỳnh Nương cũng lẻn dậy, rửa mặt mũi xong, bèn gọi Tiến An mở cửa sau, đem theo một ít tư trang rồi rời khỏi nhà.

Bao Công nghe xong, trầm ngâm giây lát, lại đưa mắt nhìn sang Công Tôn Sách đang ngồi bên cạnh.

Công Tôn Sách vốn là mưu sĩ của Bao Công, đồng thời lại là thầy thuốc, cho nên có thể kiêm luôn cả việc kiểm nghiệm vết thương và trị bệnh. Ông có vóc dáng khác xa Bao Công, cử chỉ tao nhã, nước da trắng sáng. Thấy Bao Công nhìn mình, ông bèn nói nhỏ: “Còn phải hỏi tên gia đồng nữa.” là: “Đúng, bản phủ cũng có ý đó!” Bao Công bèn ra lệnh: “Truyền gọi Tiến An!” Tiến An quỳ dưới công đường, dập đầu như tế lễ: “Bao đại nhân, tiểu nhân không dám nói dối nửa câu, việc Quỳnh Nương bị hại không liên quan đến tiểu nhân!”

“Ta chưa nói có can hệ đến ngươi. Nhưng, ngươi là nhân chứng, do đó phải kể lại tất cả sự việc một cách rõ ràng.” Bao Công nghiêm khắc nói.

“Thưa vâng!” Tiến An bắt đầu kể.

Lúc bấy giờ trời hãy còn rất sớm, trên đường sương mù dày đặc, dù xa hay gần vẫn không nhìn được bóng người. Quỳnh Nương từ trước đến nay chỉ ở trong nhà, nhìn cảnh vật cảm thấy rất mới mẻ. Tiến An mời được Quỳnh Nương, hoàn thành được nhiệm vụ chủ liến thoắng nói không dứt tiếng.

Chẳng bao lâu, hai người đến rừng Hắc Phong.

“Đây là đâu mà âm u thăm thẳm?” Quỳnh Nương hỏi: “Là rừng Hắc Phong.” Tiến An trả lời: “Ồ!” nàng buột miệng kêu lên. Nàng từng nghe nhiều về những bí ẩn của khu rừng này nên bắt đầu cảm thấy lo ngại.

Tiến An cũng hiểu rõ việc này, nên trong lòng sợ hãi, bèn nói với Quỳnh Nương: “Hôm nay chúng ta đi quá sớm, mặt trời vẫn còn chưa mọc, sương vẫn còn dày, vào rừng sợ không an toàn, chi bằng tìm một nơi nào đó ngồi nghỉ chân, đợi giây lát hoặc có người vào rừng, lúc đó chúng ta hãy đi cũng không muộn…”

Quỳnh Nương thấy đúng nên nói: “Nơi này cũng hoang vu hẻo lánh, hay là đi tiếp một chút nữa, xem chỗ nào rộng rãi sẽ nghỉ chân, mặt trời cũng sắp mọc rồi…”

Thế là hai người tiếp tục đi về phía trước.

Bốn bề vắng lặng, ở đây cách phủ trang đã rất xa, lại không nghe thấy tiếng người. Chỉ có tiếng kêu của mãnh thú từ khu rừng trước mặt vọng đến khiến người ta lạnh run.

Quỳnh Nương hơi hối hận. Thứ nhất vì không cho chồng hay, nếu chàng biết nàng nhất định muốn đi, thì sẽ đưa qua rừng rồi. Thứ hai là vì dậy sớm, nếu như đợi mặt trời lên hãy đi, lúc ấy cũng không đến nỗi… Còn đang suy nghĩ, nàng bỗng nghe thấy có tiếng người vọng ra từ màn sương dày đặc trước mặt.

Tiến An cũng nghe được, anh ta vội kéo tay Quỳnh Nương định trốn vào bụi cây gần đó.

Nhưng, đã quá muộn. Phía trước xuất hiện ba tên đại hán. Quỳnh Nương nói khẽ: “Nhìn thấy người mà trốn sẽ làm cho người ta hiểu lầm, chi bằng đường đường chính chính ta đi, lẽ nào bọn người xấu lại kêu ta mà hại?”

Nhìn thấy phía trước có người, ba tên cũng dừng lại nói chuyện. Hai bên lẳng lặng đi qua nhưng ba tên kia cứ đăm đăm nhìn Quỳnh Nương. Nàng cúi đầu xăm xăm bước, bỗng nhiên nàng ngẩng đầu lên liếc nhanh rồi chợt kêu lên một tiếng kinh hoàng. Quỳnh Nương kéo vội Tiến An nói: “Mau, chúng ta mau đi đến chỗ rộng rãi.”

Ba tên đợi nàng và Tiến An đi qua, lập tức dừng lại. Bọn chúng rỉ tai nhau, rồi đổi hướng chạy đuổi theo hai người.

Quỳnh Nương đoán mọi việc không êm, càng chạy nhanh. Tiến An bảo vệ phía sau la lên: “Phu nhân, mau chạy đi, tôi sẽ đối phó với chúng!”

Thế nhưng, một tên gia đồng ốm yếu làm sao chặn đường ba tên đại hán hung hăng được? Hai tên cản vội y, kéo sang một bên. Còn một tên thì rút từ sau lưng ra một vật sáng bóng như dao mổ súc vật chạy về phía Quỳnh Nương. Chỉ thấy lưỡi dao sáng quắc vung lên, Quỳnh Nương kêu một tiếng thảm thiết, ngã ập xuống đất. Hung thủ tiện tay lục tìm vàng vòng tư trang cướp hết, sau đó ra hiệu cho hai tên còn lại.

Bọn này không có ý hại đến tính mạng Tiến An, thấy mọi việc xong xuôi, bèn thả y ra, vội biến vào rừng Hắc Phong. Hà Tiến An vội chạy về phía Quỳnh Nương, thấy thi thể đầy máu, hơi thở đã ngừng từ lâu. Thế là cắm đầu chạy thục mạng về báo.

Bao Công lại hỏi tỉ mỉ về hai việc: hung thủ sử dụng loại dao nào, có thể lấy từ đâu? Còn nữa, lúc Quỳnh Nương và hung thủ phát hiện nhau, nàng kinh hãi kêu lên, tiếng kêu kia có hàm ý gì?

Sau khi bãi đường, Bao Công cùng Công Tôn Sách, hộ vệ Triển Chiêu lui vào phòng khách trong nha huyện.

Bao Công, tiếp lấy chén trà từ tay người hầu, nhấp một ngụm trà, từ từ đi đến thư án, cầm bút viết lên ba chữ: Hắc Phong lâm. Sau đó, cứ đăm chiêu nhìn vào ba chữ trên. và Công Tôn Sách hỏi: “Bao đại nhân, có phải người đang nghĩ về vụ án kia?”

Bao Công không đáp.

“Xem ra, đây nhất định là bọn cường đạo qua đường mà thôi.”

“Công Tôn tiên sinh sao đoán vậy?” Bao Công hỏi: “Đầu tiên là vì rừng Hắc Phong xưa nay vốn là nơi thường xảy ra án mạng, thổ tặc cường đạo, cướp phá vô định, nhìn thấy Quỳnh Nương mang theo vàng vòng tư trang, nhất thời sinh lòng tham, giết người cướp của; thứ hai vì hung thủ thuận tay rút dao ra, nếu là người bình thường, thì sao đem dao theo mình?”

Bao Công trầm ngâm: “Ờ… nếu quả đúng là bọn cường đạo, tại sao chúng lại buông tha Tiến An? Cũng không cưỡng hiếp Quỳnh Nương, nói về nhan sắc của Quỳnh Nương thì bọn chúng có thể bỏ qua ư?”

“Vâng ạ!…” Công Tôn Sách rụt rè cảm thấy những suy luận của mình hơi vội vàng.

“Bao đại nhân.” Huyện lệnh chạy vội vào, cung kính nói: “Trước cửa nha huyện có cặp vợ chồng già đến kiện, nói rằng con rể họ là Vương Thế Bân đã mưu hại Quỳnh Nương con gái họ!”

“Hả?” Bao Công vuốt chòm râu dài, đoạn ra lệnh: “Thăng đường.”

Mẹ Quỳnh Nương đỡ chồng vừa mới hết bệnh, quỳ xuống, giọt ngắn giọt dài khóc nói:

“Bao đại nhân, thảo dân Trần Trọng Sinh, Hứa Á Chung xin khấu kiến Bao đại nhân!”

“Bình thân, miễn lễ.” Bao Công sai tả hữu đem ghế mời hai lão ngồi. Đây cũng là thói quen tiếp các cụ già của Bao Công.

“Bao đại nhân, con gái chúng tôi bị oan, xin Bao đại nhân đứng ra xét xử. Kẻ chủ mưu giết Quỳnh Nương không ai khác, mà chính là đứa con rể lòng dạ đen tối Vương Thế Bân!” Ông lão cất giọng rên rỉ nói: “Đúng vậy, con gái chúng tôi bình thường đối xử với mọi người rất hòa nhã, thân mật, chưa một lần mạo phạm đến hắn, thế mà tên tặc đồ nào lại hại chết nó chứ? Chính hắn đã làm cho chúng tôi tuổi già không nơi nương tựa.” Bà lão mặt đầy nếp nhăn kêu than càng thêm bi thảm.

“Làm sao biết được là do Vương Thế Bân chủ mưu? Tại sao anh ta phải làm như vậy?” Bao Công hỏi.

“Bao đại nhân, năm trước Quỳnh Nương bị kẻ xấu gạt bắt đi, nhưng may mắn được cứu thoát, Vương Thế Bân vẫn ôm hận trong lòng, nghi ngờ Quỳnh Nương. Lần này, Quỳnh Nương kiên quyết về thăm cha bệnh, y đoán nó có mưu đồ trốn đi, nên mới mượn dao người giết hại!”

Vụ án lại xuất hiện một manh mối mới, Bao Công vụt có những suy nghĩ khác, vội ra lệnh hai người kể lại câu chuyện tỉ mỉ.

Thì ra, Vương Thế Bân cũng là một thư sinh, năm trước cùng vợ vào kinh dự thi, ngụ tại nhà trọ của Vương bà phía Tây Hoa Môn. Lúc rời nhà ra đi nghe lộn ngày thi, nên đến đây mới phát hiện ra còn hơn hai tháng nữa mới đến ngày thi tuyển. Trở về nhà ư, về rồi lại lên sẽ không kịp nên đành phải ở lại chờ. Vương bà đề nghị Quỳnh Nương thêu giày bán có thể kiếm được ít tiền. Hai vợ chồng bàn bạc cẩn thận, cuối cùng nghe theo ý kiến này, nên tạm thời lưu lại đây chờ đợi.

Lúc bấy giờ, có tên lái buôn xảo quyệt Trương Man ngụ tại nhà họ Chữ đối diện quán trọ của Vương bà. Trương Man nhìn thấy sắc đẹp của Quỳnh Nương, trong lòng ham muốn, bèn hỏi Vương bà: “Cô nương ở trên lầu từ đâu đến?” Vương bà đáp: “Từ huyện Khải Khánh đến, là vợ của thư sinh Vương Thế Bân.” “Tiểu sinh muốn làm quen với nàng, không biết mụ có chịu giúp đỡ không?” Vương bà là kẻ từng trải, tất nhiên là hiểu rõ động cơ của y, bèn đáp: “Có việc gì khó đâu, nếu quan nhân muốn, già này xin giúp sức.” Trương Man như mở cờ trong bụng, vội nói: “Nếu được vậy, tôi xin nghe theo!” Nói xong, đưa trước cho mẹ vài lạng bạc, thì thầm bàn bạc rồi cả hai chia tay.

Vương bà nghĩ Vương Thế Bân dựa vào tiền thêu giày của vợ mà sống qua ngày nhất định sẽ cảm thấy rất ray rứt, nếu lúc này chỉ cho công việc làm, chàng sẽ làm ngay. Vì thế ngay trưa hôm đó, mụ bèn lên lầu thăm Quỳnh Nương, nhìn thấy Vương Thế Bân ủ rũ ngồi dựa bên giường, liền đề nghị: “Ngươi xuất thân là nhà nông, lại là người có học, sao không đến Ngọ môn tìm việc làm, kiếm thêm tiền? Chỉ dựa vào tiền của vợ thì thật không dễ chút nào.”

Vương Thế Bân nghe chỉ dẫn, cảm thấy rất vui, bèn hỏi kỹ đường đi đến Ngọ môn, Quỳnh Nương cũng nói: “Nếu chàng cảm thấy được thì chàng cứ đi còn hơn cả ngày cứ ngồi ở nhà buồn nản.”

Nghe vậy, Vương Thế Bân mới quyết định tìm việc làm. Ngay sáng hôm sau chàng lên đường. Trước Ngọ môn khung cảnh rộng rãi khoáng đạt, cây cối thành rừng, cảnh sắc tráng lệ. Nơi đây không ít người qua lại, mọi người đều nghèo khổ như nhau. Vương Thế Bân không hiểu có nhiều người kiếm việc làm đến vậy thì làm sao đến phiên mình được?

Chợt thấy một vị Hiệu úy nói rằng Khâm Thiên lâm cần một người làm vừa biết thi văn lẫn trồng hoa. Mọi người vội vây lấy, tranh nhau đi. Vương Thế Bân đứng từ xa nhìn lại, không biết có nên tranh giành không. Không ngờ, viên Hiệu úy như bị lực hút kỳ bí nào đó, gạt đám người ra, đến trước mặt chàng hỏi:

“Này, ngươi có thể làm vườn không?” Vương Thế Bân hoang mang gật đầu: “Vậy ngươi đi theo ta!” Viên Hiệu úy dẫn chàng vào Khâm Thiên lâm, gặp Lý công công. Hai người đàm luận về các loại hoa, về đất đai ra chiều rất hợp ý, sau đó viên Hiệu úy lại dẫn chàng vào vườn hoa. Vương Thế Bân làm việc chăm chỉ, hết sức cẩn thận. Tối đến chàng lại quay về quán trọ, nói với Quỳnh Nương và Vương bà:

“Lý công công rất vừa ý, ông ấy không muốn đổi người, kêu ta làm thêm một thời gian nữa. Ông ấy còn hỏi ta muốn ở lại trong phủ không. Ta bảo cần phải hỏi qua ý kiến của nàng.”

Quỳnh Nương không đành lòng xa chồng nên nói Khâm Thiên lâm cách nơi này không xa, tối quay về là tốt hơn. Nhưng, Vương bà ngầm có ý xấu, do vậy ra sức can ngăn chàng: “Ta biết con người Lý công công, ông rất coi trọng phẩm đức, thích những người nhanh nhẹn tháo vát, ông ấy đã có ý mời người ở lại, tốt nhất là ngươi nên đi, ở đó làm được một tháng, tự nhiên ông ấy sẽ xem trọng ngươi, sau này thi cử, sẽ có người giúp đỡ. Phu nhân cứ để ở đây, đừng lo.”

Vương Thế Bân cũng nghĩ vậy, nên từ biệt vợ yêu, đi đến Khâm Thiên lâm.

Vương bà vội vàng tìm Trương Man, nói: “Hắn bất nhân, ta bất nghĩa. Tên Vương Thế Bân kia gần đây đã tìm được việc làm trong Khâm Thiên lâm, tự nghĩ rằng tương lai xán lạn đã được định sẵn, nên nhờ ta đem Hứa thị bán đi, một lòng tìm công danh, điều này không tốt cho công việc của người và ta sao?”

Trương Man cũng hiểu mụ muốn thêm tiền, nên hỏi: “Mụ muốn bao nhiêu?” “100 lạng.” Trương Man lấy 70 lạng, giúi vào tay mụ, xảo quyệt nói: “Bao nhiêu đây đủ rồi, nhớ lấy ngày giao người lên thuyền của ta!”

Ba hôm sau, Vương bà bèn nói với Quỳnh Nương:

“Phu nhân, Vương quan nhân sống ở nhà Lý công công rất vui vẻ, hôm nay đặc biệt sai mang kiệu đến rước phu nhân đi đến đấy vài hôm. Hiện giờ kiệu đã đến rồi, đang chờ bên ngoài.”

Quỳnh Nương tin lời, vội thu dọn đồ đạc, lên kiệu đi. Vương bà vội đi đường tắt đến chỗ thuyền của Trương Man đợi sẵn. Quỳnh Nương vừa xuống kiệu thì thấy ngay mụ đang đứng trên thuyền, hơi nghi ngờ, hỏi: “Vương bà, không phải người nói rằng chồng ta sẽ đón ở Khâm Thiên lâm ư? Sao lại đến đây?”

“Phu nhân không biết đó thôi.” Mụ nói: “Mấy ngày trước Vương quan nhân không biết đã phạm phải việc gì khiến Lý công công nổi giận, bị đuổi khỏi Khâm Thiên lâm rồi, trước lúc ra đi, hắn có nhờ ta đem nàng bán cho phú thương Trương Man ở kinh thành được 80 lạng bạc đây.”

Vương bà bèn đem tờ ngân phiếu có chữ ký của Vương Thế Bân cho Quỳnh Nương xem. Trương Man bèn ra lệnh cho hai tên tặc hán: “Mau nhổ neo lên đường!”

Quỳnh Nương trong lòng đau khổ ủ ê, quỳ mộp xuống mũi thuyền khóc nức nở.

Vương Thế Bân làm việc cực khổ hơn tháng trời, được thưởng hai lạng bạc, chàng định quay về thăm vợ, không ngờ tìm không ra bóng dáng vợ yêu, vội hỏi thăm Vương bà.

Vương bà giả vờ mắng nhiếc: “Con người người sao vậy? Mấy bữa trước đây người sai mang kiệu đến rước nàng đi, hôm nay lại về đòi người, chẳng lẽ ngươi muốn làm tiền ta ư? Nói xong, gọi lính đến vu cáo Vương Thế Bân. Vương Thế Bân là người thật thà, chàng nghĩ, có lẽ Vương bà vô can với việc vợ bỏ đi, đành ngậm đắng nuốt cay, thầm than thân trách phận trở về Khâm Thiên lâm. Kỳ thi kết thúc, Vương Thế Bân lại không có tên trên bảng vàng, chàng đành phải từ bỏ ý định làm quan, cam lòng về quê làm ruộng. Nhưng, chàng quyết tâm tìm cho được Quỳnh Nương.

Lúc này chàng đã biết rằng vợ mình bị người gạt đem đi, nhưng không tin Quỳnh Nương tham giàu bỏ nghèo mà xua đuổi chàng, thế là chàng đi dọc theo đường làng, vừa làm vừa kiếm sống, vừa dò tìm nơi vợ sinh sống.

Bao nhiêu tháng đã trôi qua, Vương Thế Bân cũng đến được Trần Lưu huyện. Có một hộ phú thương tên gọi Diêu Hồng Vũ nhờ chàng chăm sóc vườn hoa, sau khi công việc làm xong, họ Diêu rất thích tay nghề của chàng, bèn mở tiệc rượu thết đãi. Trong bữa tiệc, lúc rượu say, có một phụ nữ đứng nấp sau rèm cửa quan sát Vương Thế Bân, chàng bèn hỏi chủ nhân:

“Người đó là gì của ngài?”

Diêu Hồng Vũ đáp: “Đó là tiểu thiếp ta vừa mới mua về.” Nói xong, truyền gọi nàng ra.

Không ngờ đó chính là Quỳnh Nương. Vừa bước ra nàng vội kêu to: “Phu quân, sao chàng giờ này mới đến?” Nói xong, nước mắt tuôn như mưa.

Hai vợ chồng vội ôm lấy nhau, kể rõ sự tình.

Vương Thế Bân bèn kiện lên nha huyện, Diêu Hồng Vũ chối, nói mình không biết rõ nội sự, Quỳnh Nương là do một người tên Trương Man đem đến. Huyện lệnh phái người đi tìm bắt Trương Man, nhưng không ngờ y đã mắc bệnh chết rồi.

Sau khi dẫn Quỳnh Nương trở về, thỉnh thoảng lại có những lời trách nhẹ, ý nói Quỳnh Nương không nên bỏ chàng mà đi, Quỳnh Nương tự biết mình mắc oan, nhưng đành phải âm thầm chịu đựng.

“Bao đại nhân minh xét!” Trần Trọng Sinh đau khổ nói: “Tiểu nữ đã vì Vương Thế Bân mà chuốc lấy đau khổ, Vương Thế Bân lại cứ trách móc tiểu nữ, vậy có hợp lý không? Lần này tiểu nữ muốn về nhà thăm cho bệnh nặng, thì việc y giả vờ ngăn cản, rồi sau đó mưu sát là có liên quan với nhau.” “Truyền Tiến An vào!” Bao Công ra lệnh.

Tiến An quỳ trước công đường, kể lại việc Vương Thế Bân ngăn cản, không muốn nàng về nhà.

“Truyền Vương Thế Bân!” Bao Công lại ra lệnh cho tả hữu.

Vương Thế Bân thừa nhận chàng có ngăn cản Quỳnh Nương về nhà thăm cha, nhưng đối với việc vu khống chàng ra tay giết vợ, thì không nén được kinh ngạc và đau khổ. Chàng nói: “Nhạc phụ, nhạc mẫu đại nhân, cha mẹ không thể nói bừa, nếu việc này có đổi lấy đầu con cũng không sao, chỉ sợ nỗi oan của Quỳnh Nương vẫn không giải được.” Trần Trọng Sinh, Hứa Á Chung quay đầu không để ý đến chàng.

“Oan quá! Bao đại nhân, thảo dân không giết người!” Vương Thế Bân kêu to.

“Ngươi không giết người thì ngươi là cái gì!” Công Tôn Sách lớn tiếng nhắc nhở.

Tại công đường không thể lập tức kết luận được, Bao Công bèn truyền tạm thời giam Vương Thế Bân, Tiến An vào ngục, đợi phán xử sau, sau đó tuyên bố bãi đường.

Đi đến nhà thủy tạ ở hậu viên, Công Tôn Sách nói Vương Thế Bân có động cơ giết người nhất, bởi vì đã là đấng nam nhi thì anh ta không cách nào nhịn được việc vợ mình bỏ đi lần thứ hai.

Bao Công không phản đối lại ý kiến của Công Tôn Sách, nhưng lại cho rằng hiện giờ đã xuất hiện một vụ án khác trong vụ án này, như vậy trước tiên là phải trực tiếp nắm được tài liệu… “Triển Chiêu!” Bao Công gọi.

Triển Chiêu là hộ vệ của Bao Công, lại là trợ thủ đắc lực của ông. Anh tinh thông võ nghệ, mười mấy người vẫn không chạm được vào người chàng, lại là người cương trực, do đó được Bao Công đặc biệt yêu mến: “Bỉ chức có mặt, thưa Bao đại nhân!” Triển Chiêu từ xưa đến nay vẫn đi theo bên cạnh không rời xa, lúc này vội bước lên phía trước đáp.

“Ngươi hãy đi đến Trần Lưu huyện, hỏi kỹ về vụ án Trương Man!” “Vâng!”

“Đi mau về!”

“Rõ!” Triển Chiêu lãnh lệnh ra đi. Xế chiều hôm sau, Triển Chiêu đã trở về, không dám trễ, vội vào bẩm báo lại với Bao Công. Những điều Trần Trọng Sinh kể về việc Trương Man gạt bắt cóc Quỳnh Nương đều là sự thật, nhưng theo Huyện lệnh thì cái chết của Trương Man có nhiều nghi vấn.

“Có nghi vấn sao không điều tra?” Bao Công không kìm được hỏi.

“Trương Man là người kinh thành, không thuộc sự quản lý của huyện Trần Lưu, cho nên không tiện hỏi kỹ.” Triển Chiêu đáp.

“À!” Bao Công vuốt chòm râu đen suy nghĩ: “Xem ra, chúng ta phải trở về kinh thành rồi!”

“Đại nhân!” Công Tôn Sách khuyên: “Chỉ vì một vụ án cỏn con, mà phải quay về thì đại nhân không nên đi, theo ngu ý của thuộc hạ nên để Triển Chiêu đi một chuyến nữa.”

Bao Công không đồng ý: “Lấy dân làm chủ là trọng trách mà Hoàng thượng giao cho bản phủ, nếu không tự mình quay về, thật sự ta không yên tâm.”

Nói đi là đi, sáng sớm hôm sau Bao Công đã ra lệnh quay về thành để điều tra. Ông hỏi hàng xóm của Trương Man xem lúc còn sống y có bệnh tật gì không? Hàng xóm cho biết, anh ta vốn mạnh khỏe như voi, bình thường không có bệnh tật gì, ông hỏi tiếp xem y chết đột ngột là bị bệnh gì, có mời thầy lang đến chẩn đoán trị bệnh không? Hàng xóm đáp: “Không thấy thầy lang đến.”

Bao Công càng hỏi càng nghi ngờ, bèn ra lệnh đào mộ, để điều tra chứng tích.

Vào giữa thu, gió thổi từng cơn, khí hậu trở lạnh. Mộ của y ở trên ngọn núi cô độc ngoài thành, trên bia có khắc “Trương Man chi mộ”. Bao Công dẫn Công Tôn Sách, Triển Chiêu, cùng người tùy tùng đứng trước ngôi mộ. Chòm râu đen của ông bay phất phơ theo gió, ông đưa mắt nhìn bốn bề hoang lạnh, tự nói: “Tại sao lại xây mộ ở nơi hoang vắng như vậy?”

Triển Chiêu hỏi: “Đại nhân, có đào không?” Bao Công chỉ tay một cách dứt khoát: “Đào!”

Mấy người tùy tùng nghe lệnh, hì hục đào, nháy mắt đã nhìn thấy huyệt, trong huyệt để lộ ra một cỗ quan tài, họ bèn nhảy xuống, dùng dây cột quanh, sau đó từ từ kéo lên. Mọi người đều quay lại xem.

Bên trong quan tài trống rỗng: “Trương Man chưa chết!” Triển Chiêu kêu lên.

“Lưới trời lồng lộng! Hắn không thoát được đâu!” Bao Công nhìn lên trời, buông gọn từng chữ, như nhìn thấy y đang đứng trước mặt.

Bao Công sắp xếp mọi việc, trước tiên đi dò xét về thân thế của Trương Man, người do thám về báo lại ông nội y làm nghề đồ tể mổ heo, cha y cũng theo nghề mổ heo, có mở hàng thịt.

“Ồ!” Bao Công gật đầu: “Vậy là đúng rồi!”

“Đại nhân, có phải người đã có kết luận?” Công Tôn Sách không hiểu hỏi lại.

“Ngươi còn nhớ không? Bản phủ đã từng hỏi kỹ Tiến An hung thủ giết Quỳnh Nương đã dùng loại hung khí nào? Tiến An đáp: đó là loại dao nhọn, nhọn như dao giết heo, lại lấy ra từ trong sọt, chỉ những tên đồ tể mới cất dao trong sọt, nói như vậy rõ ràng hung thủ có thể là những tên đồ tể đi xuống thôn mua heo thịt. Trương Man chưa chết, y theo nghề đồ tể của cha. Như vậy, hung thủ và Trương Man không có liên quan với nhau sao?” Bao Công phân tích từng bước, từng bước.

“Nhưng…” Công Tôn Sách hình như vẫn chưa tin: “Lắm người giết heo, không thể chỉ có Trương Man!”

“Hung thủ nhận ra Quỳnh Nương.” Bao Công nhắc thêm: “Ngươi có nhớ không? Tiến An nói lúc Quỳnh Nương và hung thủ nhìn nhau, thì nàng thất kinh la lên. Nếu sát thủ là do Vương Thế Bân tìm, thì làm sao có thể biết Quỳnh Nương chứ?”

“Ờ!” Công Tôn Sách khâm phục: “Đúng là như vậy!”

“Ta có ý này!” Bao Công truyền Triển Chiêu đến, cùng vào mật thất, dặn dò tỉ mỉ. Triển Chiêu lãnh lệnh thi hành.

Triển Chiêu chọn một tên công sai mới vào phủ Khai Phong cho mặc đồ dính đầy vết máu Quỳnh Nương của Tiến An, đến khắp đường phố trong kinh thành phao tin, nói rằng mấy ngày trước có đi qua rừng Hắc Phong ở huyện Khải Khánh, gặp ba người đồ tể bị cường đạo cướp, một người trong bọn do chống cự liền bị giết chết, hai người kia hoảng sợ trốn mất.

Vừa đến trước cửa nhà Ngô Cửu gia ở hẻm phía Đông, thì có một người phụ nữ tên gọi A Châu kêu lại:

“Chồng tôi tên Ngô Cửu mấy ngày trước có đến Khải Khánh mua heo, tôi không biết chàng có đi qua rừng Hắc Phong không, và cũng không biết ai cùng đi với chàng…”

Viên công sai giả vờ ngạc nhiên tả lung tung một lúc. A Châu cho rằng người bị nạn chính là chồng mình, trong lòng tuy lo sợ nhưng vẫn không tin hoàn toàn, bèn vội vàng tạ ơn viên công sai, rồi đi tìm bà con báo tin.

Triển Chiêu lén theo sau viên công sai, nghe rõ ràng, vội chú ý A Châu, cho rằng chồng nàng rất đáng nghi, bèn sai một tên lính giả ngồi trong tiệm cơm đối diện nhà nàng, vừa ăn uống, vừa chờ Ngô Cửu trở về.

Ngày hôm sau, Ngô Cửu về nhà, thần sắc vô cùng lo sợ, trước khi bước ra cửa, y đưa mắt quét một vòng xem có ai theo dõi.

Tên lính lập tức bẩm báo lại Triển Chiêu.

Triển Chiêu vội dẫn quân ập vào nhà bắt y, hỏa tốc áp giải về phủ Bao Công.

Ngô Cửu nhìn thấy Bao Công, người mà ai cũng biết tiếng, vội quỳ xuống: “Thanh Thiên Bao đại nhân, thảo dân Ngô Cửu kính chúc sức khỏe ngài!”

Bao Công cười hỏi: “Ngô Cửu, lần này ngươi đi với ai về Khải Khánh mua heo?”

“Với…” Ngô Cửu ngập ngừng nói không ra tiếng: “Với hai người bạn cùng giết heo, thảo dân cũng không quen.” “Có thật là không quen?” Bao Công giả vờ hỏi.

“Là không quen, cùng gặp trên đường. Thảo dân không dám khai man.” Ngô Cửu lo sợ đến nỗi tuôn mồ hôi hột.

Đột nhiên, Bao Công đập bàn, lớn tiếng truyền:

“Đưa Trương Man vào!” Vừa nghe hai chữ Trương Man, Ngô Cửu vội bò về phía trước vài bước.

“Bao đại nhân, Bao đại nhân, thảo dân khai, thảo dân khai hết!”

Quả nhiên, Trương Man chưa chết, trốn tại một thôn nhỏ ở phía Tây Nam kinh thành. Y và Ngô Cửu, Lưu Minh đều là bạn rượu từ trước, lần này định đến Khải Khánh mua heo bán thịt, không ngờ lại gặp Quỳnh Nương ở rừng Hắc Phong, Trương Man vì sợ Quỳnh Nương đi báo quan, nên mới sinh ra ý định giết người diệt khẩu, phạm phải tội hình.

Bao Công lập tức ra lệnh cho Triển Chiêu đi bắt về. Trời thu cao xanh, gió thuận mưa hòa, đoàn người của Bao Công áp giải Trương Man, Ngô Cửu, Lưu Minh trở về huyện Khải Khánh.

Lúc thăng đường phán xử, đều có mặt Vương Thế Bân, Tiến An, Trần Trọng Sinh, Hứa Á Chung. Tiến An vừa nhìn thấy đã nhận ra ba tên hung thủ nói: “Chính bọn họ đã giết phu nhân!”

Sau khi nghe Bao Công tuyên án, Trần Trọng Sinh và vợ nhìn con rể rồi xấu hổ cúi đầu, họ đã mất đi con gái, suýt chút nữa lại hại chết con rể.

Vương Thế Bân quỳ lạy Bao Công, nói:

“Thanh Thiên Bao đại nhân, người đã cứu thảo dân! Người đã giải oan cho Quỳnh Nương, hai chúng tôi suốt đời suốt kiếp luôn cảm kích ơn ngài!” Bao Công tuyên bố: kết tội Ngô Cửu, Lưu Minh đày ra biên ải sung quân. Trương Man lường gạt, bắt cóc phụ nữ, giết người, đưa ra chém trước mọi người để làm gương.

Kỳ lạ thay, từ khi vụ án của Trương Man ở rừng Hắc Phong được phá, bọn cường đạo ở đấy cũng sợ uy danh của Bao Công mà cao chạy xa bay, rừng Hắc Phong trở lại bình yên, đẹp đẽ như thuở nào.